Bộ Công Thương: Sớm nhất năm 2031 có điện hạt nhân
Bộ Công Thương đưa ra 2 kịch bản phát triển nguồn điện, trong đó Việt Nam có thể vận hành nhà máy điện hạt nhân đầu tiên sớm nhất vào 2031 và muộn nhất vào 2035.
Đề xuất 2 kịch bản chính
Bộ Công Thương vừa công bố dự thảo lấy ý kiến về điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (gọi tắt Quy hoạch điện VIII điều chỉnh).
Tại dự thảo điều chỉnh lần này, Bộ Công Thương đưa ra 3 kịch bản về nhu cầu điện tương ứng với các kịch bản tăng trưởng kinh tế.
Kịch bản thấp: Nhu cầu điện đến năm 2030 là 452 tỷ kWh; năm 2035 là 611,2 tỷ kWh.
Kịch bản cơ sở: Đến năm 2030 là 500,3 tỷ kWh; năm 2035 là 711,1 tỷ kWh.
Kịch bản cao: Đến năm 2030 là 557,7 tỷ kWh, năm 2035 là 856,2 tỷ kWh.
Với các kịch bản trên, Bộ Công Thương đề xuất 2 kịch bản chính để tính toán phát triển nguồn và lưới điện.
![]() |
Việc đưa vào vận hành điện hạt nhân có ý nghĩa quan trọng trong cơ cấu nguồn điện của Việt Nam. Ảnh minh họa. |
Kịch bản 1: Nhà máy điện hạt nhân  Ninh Thuận I (2x1200MW) được đưa vào vận hành giai đoạn 2031-2035, Ninh Thuận II (2x1200MW) vận hành giai đoạn 2036-2040. Cùng với đó, 3 nhà máy LNG chưa xác định chủ đầu tư vận hành sau năm 2030, khí Cá Voi Xanh dự kiến đưa vào bờ giai đoạn 2031-2035, không phát triển mới nguồn LNG, nhập khẩu Trung Quốc tăng thêm 300 MW.
Với kịch bản này, Bộ Công Thương đánh giá do các nguồn điện tua bin khí hỗn hợp vào vận hành ở các năm cuối giai đoạn và nhiều nguồn bị chậm nên để cấp điện cho các năm 2026-2029, cần đẩy sớm đầu tư thủy điện nhỏ, điện gió, điện mặt trời, pin tích năng và nguồn nhiệt điện linh hoạt so với Quy hoạch điện VIII. Quy mô nguồn điện nhập khẩu Lào sẽ tăng từ 4 GW lên 6 GW năm 2030, chủ yếu nằm ở các dự án nhập khẩu về Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
Trong giai đoạn 2031-2050, dự báo suất đầu tư các nguồn điện gió, điện mặt trời, pin lưu trữ có xu hướng giảm mạnh, việc phát triển nguồn năng lượng tái tạo kết hợp pin tích năng kinh tế hơn nên hệ thống điện phụ thuộc rất lớn vào nguồn năng lượng tái tạo. Tỷ trọng điện năng năng lượng tái tạo (gồm cả thủy điện) tăng từ 50% năm 2035 lên 83% năm 2050.
Ở kịch bản 2: Hai nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận vận hành giai đoạn 2031-2035; đồng thời toàn bộ 14 nhà máy LNG vận hành giai đoạn 2026-2030, khí Cá Voi Xanh dự kiến đưa vào bờ giai đoạn 2031-2035, cho phép phát triển mới nguồn LNG từ năm 2030 và nhập khẩu Trung Quốc tương tự kịch bản 1.
![]() |
Điện năng lượng tái tạo sẽ chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tương lai. |
Trong trường hợp này, Bộ Công Thương tính toán cần đầu tư thêm 30 GW điện mặt trời, 5,7 GW thủy điện vừa và nhỏ, 6 GW điện gió trên bờ, 12,5 GW nguồn pin tích năng, 2,7 GW nguồn nhiệt điện linh hoạt, 1,4 GW nguồn sinh khối, rác và năng lượng tái tạo khác. Ngoài ra nhập khẩu Trung Quốc tăng 3 GW, quy mô nguồn điện nhập khẩu Lào sẽ tăng từ 4,3 GW lên 6,8 GW năm 2030.
Năm 2035, nhu cầu phụ tải tăng thêm 24 GW so với Quy hoạch điện VIII, đồng thời nguồn tua bin khí hỗn hợp LNG mới tăng thêm 7 GW trong giai đoạn 2031- 2035 tại Bắc Bộ. Nguồn nhiệt điện linh hoạt tăng 3 GW so với Quy hoạch điện VIII.
Năm 2050, ngoài 4.800 MW nguồn điện hạt nhân tại Ninh Thuận, Việt Nam sẽ xuất hiện thêm 5 GW điện hạt nhân tại Bắc Trung Bộ, 8,4 GW nguồn tua bin khí hỗn hợp - LNG tại Bắc Bộ. Các nguồn điện gió, điện mặt trời và pin lưu trữ tiếp tục tăng cao so với Quy hoạch điện VIII.
Như vậy, với các kịch bản trên, Việt Nam có thể vận hành nhà máy điện hạt nhân đầu tiên sớm nhất vào 2031 và muộn nhất vào 2035.
3 khu vực có thể xây dựng điện hạt nhân
Bộ Công Thương cho biết, vị trí tiềm năng để xây dựng các nhà máy điện hạt nhân quy mô lớn gồm 8 vị trí, trong đó mỗi vị trí có tiềm năng phát triển khoảng 4-6 GW. Điện hạt nhân có thể xem xét xây dựng tại 3 vùng Nam Trung Bộ (khoảng 25-30 GW), Trung Trung Bộ (khoảng 10 GW) và Bắc Trung Bộ (khoảng 4-5 GW).
Đến thời điểm hiện nay, chỉ có 2 địa điểm là Phước Dinh và Vĩnh Hải là có công bố quy hoạch địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Một số địa điểm tiềm năng khác (2 địa điểm ở Quảng Ngãi, 1 địa điểm ở Bình Định) được xem xét là nơi tiềm năng phát triển 4 tổ máy điện hạt nhân quy mô lớn. Tuy nhiên, do không có quy hoạch được công bố nên sau 10 năm các địa điểm này đều cần rà soát, đánh giá lại, có thể có nhiều biến động kinh tế xã hội, phát triển kinh tế tại các khu vực.
Ngoài 2 kịch bản trên, Bộ Công Thương đưa ra các kịch bản phân tích độ nhạy khi thay đổi các thông số đầu vào làm ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn điện, giá thành điện và lưới điện liên miền trong tương lai.
Trước đó, Thủ tướng yêu cầu Bộ Công Thương hoàn thiện dự thảo Quy hoạch điện VIII sửa đổi và trình Chính phủ trước ngày 28/2.
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, Quy hoạch điện VIII sau gần 2 năm triển khai đã bộ lộ nhiều bất cập, như kết quả thực hiện đầu tư các công trình nguồn và lưới điện vẫn chưa đạt được mục tiêu; cơ chế giá điện chưa đủ hấp dẫn nên việc huy động vốn cho phát triển nguồn và lưới điện gặp khó khăn… Đặc biệt, hiện Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 trên mức 8% và giai đoạn 2026 – 2030 phấn đấu ở mức 2 con số.
Điều này đòi hỏi điện năng tăng trưởng gấp 1,5 lần, dự kiến bình quân hàng năm từ 12% đến trên 16% (tương ứng mỗi năm cần bổ sung từ 8.000 - 10.000 MW).
“Đây là thách thức rất lớn, trường hợp không kịp thời có giải pháp nhanh chóng phát triển nguồn điện, nhất là các nguồn điện nền, điện xanh, điện sạch, bền vững sẽ tiềm ẩn nguy cơ thiếu nguồn cung điện nghiêm trọng, nhất là trong thời gian từ năm 2026 đến năm 2028”, Bộ Công Thương nhận định.
>> 5 tỉnh có cơ hội xây dựng nhà máy điện hạt nhân lớn tại Việt Nam 
5 tỉnh có cơ hội xây dựng nhà máy điện hạt nhân lớn tại Việt Nam 
Thủ tướng giao tập đoàn EVN, PVN làm chủ đầu tư hai nhà máy điện hạt nhân