Điều đặc biệt của triều đại này là suốt 143 năm trị vì nhưng chỉ có 2 người được phong làm hoàng hậu khi còn sống.
Có một thực tế, triều Nguyễn tồn tại 143 năm, qua 13 đời vua trị vì nhưng chỉ có hai vị hoàng hậu được sắc phong, đó là Thừa Thiên Cao Hoàng hậu và Hoàng hậu Nam Phương  thời Vua Bảo Đại. Điều này có nghĩa là kể từ thời Vua Minh Mạng (vị vua thứ 2 của triều Nguyễn) trở đi, các vua kế vị sau đều không lập hoàng hậu khi tại vị. Các bà vợ của vua chỉ được sách phong làm phi, tần và ngôi cao nhất là Hoàng quý phi.
Hai người phụ nữ đặc biệt được sắc phong Hoàng hậu
Thừa Thiên Cao Hoàng hậu là vị hoàng hậu đặc biệt của nhà Nguyễn. Bà là chính thê của Vua Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh, thường gọi Nguyễn Ánh) và cũng là hoàng hậu duy nhất được song táng cùng vua tại lăng tẩm.
Hoàng hậu Thừa Thiên Cao tên thật Tống Thị Lan, xuất thân từ dòng họ Tống Phục thị danh giá ở Tống Sơn, Thanh Hóa. Khi Gia Long thành niên tuổi 18 đã mang đầy đủ nghi lễ, vật phẩm đến hỏi cưới Tống thị làm chính thất. Ông tấn phong cho bà làm Nguyên phi vào năm 1778, năm ấy bà tròn 18.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi với niên hiệu Gia Long và lập ra vương triều Nguyễn. Chỉ một năm sau, Tống Thị Lan trở thành Vương hậu, đến khi Nguyễn Ánh xưng Đế năm 1806 thì bà được sắc phong Hoàng hậu.
Năm 1814, Thừa Thiên Cao Hoàng hậu từ trần và được tấn phong tên thụy là Giản cung tề hiến Đức chính thuận nguyên hoàng hậu. Đến năm 1820, bà được dâng thêm tôn thụy là Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Bà được song táng cùng Vua Gia Long tại lăng Thiên Thọ. Trong tất cả hậu lẫn phi triều Nguyễn, bà cũng là người duy nhất được song táng cùng vua.
Trong khi đó, Hoàng hậu Nam Phương là vợ Vua Bảo Đại. Bà tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan, nổi tiếng bởi vẻ đẹp dịu dàng, đức hạnh và tài năng.
Khi Bảo Đại ngỏ lời cầu hôn, Thị Lan liền đồng ý lấy ông với 3 điều kiện: Phải được tấn phong làm hoàng hậu ngay trong lễ cưới; được giữ lại nguyên đạo thiên chúa, các con sau khi được sinh ra đều được rửa tội, được giữ đạo và cuộc hôn nhân này phải được Toà thánh La Mã cho phép, hai người giữ hai tôn giáo khác nhau, không ai bắt buộc ai về tôn giáo. Vì vậy cuộc hôn nhân giữa Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan gặp phải rất nhiều phản đối.
Để giữ lời hứa, Bảo Đại đã tấn phong cho bà Nguyễn Hữu Thị Lan làm hoàng hậu ngay sau lễ cưới ở điện Thái Hòa. Tên hiệu của bà là Nam Phương có nghĩa là "hương thơm của phương Nam".
Bảo Đại từng kể về lễ tấn phong Hoàng hậu trong hồi ký: “Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước An Nam mà một người đàn bà đã tiến lên một mình giữa sự chào đón của triều đình... Cũng vẫn chỉ một mình, cô đã vào trong đại sảnh đã có tôi đợi ở đó, và ngồi ở một cái đôn để ở thấp hơn".
Sự kiện Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong hoàng hậu ngay sau khi cưới là một điều hiếm hoi đối với các chính cung trong triều Nguyễn vì các đời trước mới chỉ có duy nhất Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, chính thất của Gia Long  được phong hoàng hậu khi còn sống.
Lý do thực sự là gì?
Suốt 143 năm trị vì nhưng chỉ có 2 hoàng hậu lên ngôi là điều đặc biệt chưa từng có của nền phong kiến Việt Nam. Giải thích cho sự đặc biệt này, một số nhà sử học cho rằng, Gia Long - vị vua đầu tiên của triều Nguyễn vì không muốn chia sẻ quyền lực cho ai, hoặc lo sợ người ngoài lấn át quyền lực nên đã đặt ra lệ “Tứ bất lập” là không lập hoàng hậu, không phong Tể tướng, không lấy Trạng nguyên, không phong Vương.
Tuy nhiên, Vua Gia Long đã tấn phong ngôi hoàng hậu cho bà Tống Thị Lan (tức Thừa Thiên Cao Hoàng hậu) ngay khi ông còn tại vị. Sách Đại Nam thực lục cho biết, năm Bính Dần (1806), mùa Thu, tháng 7, ngày Kỷ Mùi, vua sách lập vương hậu Tống Thị Lan làm hoàng hậu... Ngày Quý Hợi, vua ngự ở điện Thái Hòa nhận lễ mừng, hạ chiếu bố cáo trong ngoài…
Như vậy, bà Tống Thị Lan được tấn phong làm hoàng hậu sau lễ lên ngôi Hoàng đế Gia Long chỉ có 2 tháng (vua lên ngôi vào ngày Kỷ Mùi, tháng 5, năm Bính Dần). Do đó, không thể khẳng định Vua Gia Long đã đặt ra lệ bất lập hoàng hậu như một số giả thuyết.
Thực tế Vua Minh Mạng có rất nhiều phi tần nhưng chưa lập ai làm hoàng hậu. Trong lời dụ của mình vua giải thích rằng: “… ngôi chủ quỹ trong cung còn để trống để đợi đức hiền”. Ngôi vị Hoàng hậu để trống để “đợi đức hiền” nhưng cho đến hết đời Vua Minh Mạng cũng không tìm thấy ai đủ đức để ngồi vào vị trí này.
Như vậy thì việc Vua Minh Mạng  không lập hoàng hậu là vì không tìm được người như ý mình, chứ không đưa ra lệ không lập hoàng hậu, cũng không có ý chỉ nào truyền lại các đời sau không được lập hoàng hậu.
Đến đời Thiệu Trị, vua ở ngôi 7 năm, cũng theo vua cha, phải thấy có người đủ đức mới lập hoàng hậu, đến cuối đời định lập Quý phi Phạm Thị Hằng làm Hoàng hậu nhưng không kịp.
Vua Minh Mạng và Thiệu Trị không lập hoàng hậu, các vua sau này cũng không lập hoàng hậu, vì không dám chắc những phi tần này có đức hạnh cao hơn để xứng đáng được phong hoàng hậu hay không. Bà Hồ Thị Chỉ được coi là chính thất của Vua Khải Định cũng chỉ được phong đến bậc Phi (Đệ nhị giai phi).