Shark Bình: Nếu chính sách miễn thuế xuyên biên giới được áp dụng, hàng hoá giá rẻ sẽ tràn vào thị trường nội địa
Shark Nguyễn Hòa Bình, một chuyên gia có hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực TMĐT, đã thẳng thắn bày tỏ quan điểm không đồng tình với dự thảo về việc miễn thuế nhập khẩu xuyên biên giới.
.jpg)
Thương mại điện tử (TMĐT) tại Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ với quy mô thị trường năm 2024 vượt mốc 25 tỷ USD. Trong bối cảnh đó, Bộ Tài chính đã đề xuất một dự thảo nghị định về quản lý hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu qua TMĐT, trong đó có chính sách miễn thuế nhập khẩu cho các đơn hàng dưới 2 triệu đồng. Tuy nhiên, đề xuất này đã nhận được nhiều ý kiến trái chiều, đặc biệt là từ các chuyên gia trong ngành.
Một ví dụ cụ thể về ảnh hưởng của TMĐT đối với thị trường Việt Nam là trường hợp của búp bê Baby Three, một dòng sản phẩm nổi tiếng toàn cầu. Với lợi thế nhập khẩu miễn thuế, các sản phẩm như Baby Three có thể dễ dàng tiếp cận thị trường Việt Nam với giá thấp hơn, cạnh tranh trực tiếp với các thương hiệu nội địa sản xuất đồ chơi. Điều này đặt ra thách thức lớn cho ngành công nghiệp đồ chơi trong nước, vốn đang nỗ lực phát triển các sản phẩm mang bản sắc văn hóa Việt Nam để cạnh tranh với hàng nhập khẩu giá rẻ.
.png)
Shark Nguyễn Hòa Bình, một chuyên gia có hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực TMĐT, đã thẳng thắn bày tỏ quan điểm không đồng tình với dự thảo này. Theo ông, mặc dù chính sách có thể mang lại một số lợi ích ngắn hạn cho người tiêu dùng và doanh nghiệp, nhưng về lâu dài, nó tiềm ẩn nhiều rủi ro, có thể làm suy yếu khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa, thất thu ngân sách và gây mất cân bằng thị trường.

Là một chuyên gia TMĐT lâu năm, ông có thể chia sẻ cảm nhận tổng quan của mình về dự thảo này không?
Nhìn chung, dự thảo Nghị định đã cập nhật và bổ sung các quy định cần thiết để quản lý hiệu quả hàng hóa xuất nhập khẩu qua thương mại điện tử, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và cá nhân tham gia vào hoạt động này.
Đối tượng áp dụng: Dự thảo mở rộng đối tượng áp dụng, bao gồm cả chủ sở hữu sàn giao dịch thương mại điện tử và website thương mại điện tử bán hàng, tương đồng với quy định về người nộp thuế trong Luật Quản lý thuế.
Địa điểm làm thủ tục hải quan: Dự thảo quy định cụ thể địa điểm đăng ký tờ khai hải quan cho hàng hóa xuất nhập khẩu qua thương mại điện tử, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và cá nhân trong việc thực hiện thủ tục.
Quản lý thuế: Để ngăn chặn việc lợi dụng chính sách miễn thuế, dự thảo đề xuất quy định mỗi tổ chức, cá nhân chỉ được miễn thuế đối với một số lượng đơn hàng nhất định trong tháng.
Theo ông, chính sách miễn thuế cho đơn hàng dưới 2 triệu đồng có thể tác động thế nào đến thị trường thương mại điện tử Việt Nam?
Trước hết, chúng ta hãy nhìn vào mặt tích cực. Có 2 lợi ích lớn chính sách này có thể tác động đến thị trường thương mại điện tử Việt Nam.
Thứ nhất, thúc đẩy tiêu dùng trực tuyến: Miễn thuế cho các đơn hàng nhỏ sẽ khuyến khích người tiêu dùng mua sắm nhiều hơn trên các nền tảng thương mại điện tử, đặc biệt là đối với các sản phẩm có giá trị thấp hoặc trung bình. Điều này sẽ tạo động lực phát triển cho thị trường TMĐT Việt Nam, thu hút thêm nhiều người tiêu dùng vào hệ sinh thái mua sắm trực tuyến.
Thứ hai, giảm chi phí giao dịch: Miễn thuế đối với các đơn hàng dưới 2 triệu đồng có thể giúp giảm chi phí giao dịch tổng thể cho người tiêu dùng, làm tăng sức mua và hỗ trợ nền kinh tế số phát triển.
Nói đến tích cực, thì cũng nhìn đến mặt tiêu cực. Những chính sách này sẽ tác động rất lớn tới thị trường, đến tất cả các bên:
Nhà nước: Thất thu thuế khi người tiêu dùng không mua hàng trong nước (đang nộp thuế), mà chuyển sang mua hàng xuyên biên giới qua TMĐT, vừa giá rẻ lại vừa được miễn thuế.
Người tiêu dùng: Nếu mua phải hàng kém chất lượng, hoặc độc hại, thậm chí bị "thuốc", cũng không kiện được ai vì người bán ở nước ngoài.
Doanh nghiệp sản xuất, thương mại trong nước: Chết từ nhiều đến hết, vì không cạnh tranh nổi với hàng Trung Quốc do bị "bảo hộ ngược" về thuế & điều kiện kinh doanh.
Doanh nghiệp thương mại nhập khẩu: Chết sạch vì phải đáp ứng nhiều điều kiện kinh doanh, thuế, hợp chuẩn hợp quy thì mới nhập được một cont hàng về bán. Tuy vậy lại còn bị "nắm tóc", chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm. Do vậy, không thể "đấu" được với hàng bán lẻ xuyên biên giới.

Theo như ông nói thì thị trường thương mại điện tử Việt Nam hưởng lợi nhiều nếu như chính sách đi vào thực tiễn. Vậy, vì sao ông lại phản đối?
Chúng ta hãy nhìn vào mặt tiêu cực. Có 5 tiêu cực lớn có thể xảy ra ngay nếu chúng ta “mở rào”: Nguy cơ về kiểm soát chất lượng hàng hoá, nguy cơ gây ô nhiễm, nguy cơ lách luật, nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh và giảm doanh thu thuế.
- Đầu tiên phải nói đến việc kiểm soát chất lượng: Lợi bất cập hại, thiệt hại lớn hơn với người tiêu dùng là nguy cơ sử dụng hàng kém chất lượng, thiếu kiểm định. Trong khi hàng nhập khẩu chính thức và hàng sản xuất trong nước phải tuân thủ các điều kiện kinh doanh, đáp ứng các tiêu chuẩn hợp quy, và đảm bảo tiêu chí kiểm định chất lượng sản phẩm... thì nhóm hàng hóa xuyên biên giới giá rẻ được miễn thuế này cũng đồng thời được miễn các nghĩa vụ trên. Tức là người mua có thể sẽ dùng phải hàng kém chất lượng, hàng độc hại, mà nếu để lại hậu quả nghiêm trọng, cũng không biết bắt đền ai, không được tổ chức, đơn vị nào bảo vệ. Không có đại diện thương mại chịu trách nhiệm ở Việt Nam thì cũng như "kẻ không có tóc", làm sao mà nắm?
- Gây ô nhiễm môi trường: Nếu như chất lượng hàng xuyên biên giới không thể kiểm định, thì hẳn nhiên, cũng không thể kiểm soát chất lượng, bao gồm cả hàng độc hại, kém chất lượng.
- Nguy cơ lách luật: Một số doanh nghiệp hoặc cá nhân có thể lợi dụng chính sách này bằng cách chia nhỏ các đơn hàng lớn thành nhiều đơn hàng nhỏ dưới 2 triệu đồng với thông tin người mua ảo để tránh phải nộp thuế. Điều này có thể dẫn đến mất cân bằng trong quản lý thuế và giảm nguồn thu từ thuế của Nhà nước.
- Cạnh tranh không lành mạnh: Các doanh nghiệp nhỏ hoặc nhà bán lẻ trong nước có thể gặp khó khăn khi phải cạnh tranh với các nhà bán lẻ nước ngoài, những đơn vị có thể tận dụng chính sách miễn thuế để thu hút khách hàng bằng cách hạ giá sản phẩm, làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa.
- Giảm doanh thu thuế: Chính phủ có thể bị mất một phần doanh thu từ các đơn hàng có giá trị nhỏ. Nếu chính sách này không được quản lý chặt chẽ, nó có thể ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách quốc gia.

Ông nghĩ gì về mức giới hạn miễn thuế tối đa 96 triệu đồng/năm cho mỗi cá nhân, tổ chức? Mức này có hợp lý không?
Với mức trần 8 triệu đồng/tháng, các cá nhân mua sắm hoặc nhập hàng phục vụ cho tiêu dùng cá nhân là mức rất lớn, tương đương với thu nhập bình quân hàng năm của người dân Việt Nam. Việc này có nghĩa là toàn bộ tiêu dùng hàng tháng của người dân nếu mua từ hàng hoá nhập khẩu sẽ được miễn thuế nhập khẩu hoàn toàn.
Chính sách này có thể ảnh hưởng như thế nào đến các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ?
- Cạnh tranh không lành mạnh: Doanh nghiệp trong nước để phân phối các hàng hoá nhập khẩu cần thực hiện đóng các loại thuế nhập khẩu, kiểm tra chuyên ngành, công bố sản phẩm, thuế thu nhập doanh nghiệp và hàng loạt các chi phí khác làm giảm biên lợi nhuận hay tính cạnh tranh của sản phẩm. Trong khi doanh nghiệp nước ngoài lại được bỏ qua các kiểm tra chuyên ngành giúp rút ngắn thời gian ra mắt các sản phẩm mới. Việc này cũng có thể giúp họ lợi dụng chính sách để lừa dối người tiêu dùng trong nước khi có thể giảm chất lượng, định lượng của sản phẩm mà không chịu trách nhiệm trước pháp luật.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các nhà phân phối trung gian Việt Nam đang tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương nay có thể phải đối diện với một phương thức kinh doanh mới, thay thế họ nhanh chóng hoặc cạnh tranh bằng giá rẻ.
- Các đơn vị cung cấp dịch vụ logistic trung gian cũng không được hưởng lợi do các khâu vận hành chủ yếu được thực hiện tại thị trường nước ngoài. Chỉ có khâu giao hàng cuối cùng với biên lợi nhuận cực thấp được thực hiện tại Việt Nam.

Theo ông, liệu có khả năng các nhà bán hàng nước ngoài lợi dụng chính sách này để né thuế và tạo lợi thế không công bằng so với doanh nghiệp nội địa?
Nếu chính sách này được áp dụng, hàng hoá giá rẻ từ nước ngoài sẽ tràn vào thị trường nội địa bởi các lợi thế:
- Miễn kiểm tra chuyên ngành với sản phẩm có điều kiện
- Miễn thuế nhập khẩu
- Giảm chi phí khâu trung gian giúp tiết kiệm thời gian và chi phí.
- Không cần thực hiện đóng thuế trên phần lợi nhuận thu được tại thị trường Việt Nam.
Đây là lợi thế lớn giúp họ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường nội địa của chúng ta, đẩy các nhà sản xuất trong nước, các đơn vị phân phối trung gian phải thu hẹp sản xuất hoặc biên lợi nhuận ngày càng mỏng.
Người tiêu dùng có thực sự được hưởng lợi từ quy định này, hay họ sẽ phải đối mặt với giá sản phẩm cao hơn do những điều chỉnh của doanh nghiệp?
- Trong ngắn hạn, người tiêu dùng sẽ được lợi khi có thể tiếp cận các sản phẩm mới một cách nhanh chóng với giá rẻ và thời gian giao hàng nhanh chóng.
- Trong dài hạn, khi các nhà sản xuất trong nước, nhà phân phối trung gian mất dần lợi thế cạnh tranh, thu hẹp sản xuất thì họ với lợi thế độc quyền về sản phẩm, về kênh phân phối sẽ tăng giá.


Theo ông, những giải pháp nào có thể vừa đảm bảo công bằng thuế nhưng vẫn thúc đẩy TMĐT phát triển bền vững?
- Xây dựng hệ thống thông quan điện tử có khả năng kết nối và đáp ứng năng lực giao dịch lớn cho TMĐT.
- Ban hành các quy định chính sách yêu cầu các thương nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam phải tuân thủ các nghĩa vụ tương tự như các doanh nghiệp nội địa bao gồm:
- Đối với các sản phẩm kinh doanh có điều kiện như (mỹ phẩm, TPCN, hàng điện tử….): Phải có đại diện chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm, chăm sóc khách hàng tại Việt Nam.
- Thực hiện các nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp tương tự các doanh nghiệp địa phương như: 1,5% thuế trên doanh thu (thu thông qua các sàn TMĐT tương tự các hộ kinh doanh, thương nhân Việt Nam).
Chính sách quản lý thuế TMĐT của Việt Nam đang ở mức nào so với các nước trong khu vực và trên thế giới?
- So sánh với các nước có quy mô TMĐT cao hơn Việt Nam như Indonesia, Thailand thì Việt Nam đang có chính sách mở cửa thị trường hơn.
Dẫn chứng: Theo đó, nước này áp thuế giá trị gia tăng 7% đối với tất cả gói hàng nhập khẩu có giá dưới 1.500 baht (42 USD)...
- Indonesia đã giảm ngưỡng miễn thuế nhập khẩu từ mức 100 USD xuống 75 USD và hiện tại là 3 USD. Hàng hóa có giá trị từ 3 USD trở lên phải chịu thuế nhập khẩu tiêu chuẩn 7,5% và thuế VAT 10%. Hàng hóa dưới 3 USD chỉ chịu thuế VAT 10%.
Có mô hình nào từ quốc tế mà Việt Nam có thể tham khảo để điều chỉnh chính sách hợp lý hơn không?
Để bảo vệ doanh nghiệp trong nước nhưng cũng mở cửa thị trường để đón đầu các xu hướng, hội nhập với thế giới, Việt Nam cần các chính sách chống thất thu thuế, xây dựng các chính sách công bằng nhưng không bảo hộ tuyệt đối để vẫn duy trì cạnh tranh giữa doanh nghiệp nội địa và thương nhân nước ngoài. Từ đó, tạo động lực phát triển cho cả 2 đối tượng, bảo đảm lợi ích cuối cùng với người tiêu dùng lâu dài.
Hiện nay chưa có mô hình quản lý tốt nhất với TMĐT xuyên biên giới, nhưng chúng ta có thể tham khảo mô hình của chính Trung Quốc, một quốc gia dẫn đầu về TMĐT và các chính sách tạo động lực cho TMĐT phát triển.
Tạo ra các khu vực CBEC (Cross-border e-commerce) để giúp kết nối giao thương giữa VN và quốc tế. Các doanh nghiệp nước ngoài có thể ký gửi hàng hoá vào các khu vực này, thực hiện các thủ tục kiểm tra chuyên ngành với sản phẩm có điều kiện, liên kết với các doanh nghiệp trong nước để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng…
Xin chân thành cảm ơn ông!
