Khi Võ Tắc Thiên lên ngôi, nắm quyền cai trị ở Trung Quốc thì nước ta đang dưới quyền cai trị của triều đại nào?
Nhà Đường, còn gọi là Đế quốc Đại Đường là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Nhà Đường được thành lập bởi gia tộc họ Lý và là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618). Triều đại này có một thời kỳ bị gián đoạn (690 – 705) khi Võ Tắc Thiên lên ngôi, lập ra nhà Võ Chu và trở thành nữ hoàng đế chính thống duy nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Các sử gia thường coi thời đại này là đỉnh cao nền văn minh Trung Quốc, một thời kỳ hoàng kim của văn hóa đa quốc gia. Thông qua các chiến dịch quân sự mà các nhà cai trị thời kỳ này liên tục tiến hành, lãnh thổ Trung Quốc  vào thời điểm cực thịnh rộng lớn hơn bất kỳ triều đại nào trước đó. Vậy dưới thời nhà Đường và triều đại của Võ Tắc Thiên, Việt Nam đang là triều đại nào?
Nhìn lại lịch sử, Đường Cao Tông băng hà vào năm 683, để lại di chiếu mọi việc đều do Thiên hậu quyết định. Vì thế, mặc dù Lý Hiển (Đường Trung Tông) được làm vua, thế nhưng quyền lực lại hoàn toàn ở Võ hậu, lúc này đã trở thành Hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Đường và cũng là Hoàng thái hậu đầu tiên trong lịch sử phong kiến thực hiện “lâm triều xưng đế”.
Năm 684, Võ Tắc Thiên  bãi bỏ Lý Hiển và lập Dự vương Lý Đán lên ngôi vua (Đường Duệ Tông). Nhưng 6 năm sau, Võ Chiếu đã bãi bỏ luôn đứa con này của mình mà xưng đế, lập ra nhà Võ Chu. Bà dời đô về Đông Đô (Lạc Dương), đổi tên là Thần Đô, song kinh đô trên pháp luật vẫn là Trường An.
Thời điểm đó, Việt Nam vẫn thuộc thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba. Theo sử sách, giai đoạn này kéo dài từ 602 – 905 (hoặc năm 939). Thời kỳ này bắt đầu khi Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đến đánh chiếm Vạn Xuân, vua Lý Phật Tử (Hậu Lý Nam Đế) sợ giặc nên đã đầu hàng. Ông bị bắt sang Trung Hoa lưu đày. Miền Bắc Việt Nam khi đó bị xếp thành một châu của nhà Tùy, gọi là châu Giao. Sau đó, nhà Tùy đổi châu Giao thành quận Giao Chỉ, quận lỵ đặt tại huyện Giao Chỉ
Sau Lưu Phương, đến Khâu Hòa được cử làm đại tổng quản. Năm 618, nhà Đường lật đổ nhà Tùy, lập ra Đại Đường. Khâu Hòa đã xin hàng phục vào năm 622, Việt Nam lại trở thành thuộc địa của Đại Đường. Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba này kéo dài hơn 300 năm.
Năm 679, nhà Đường đổi quận Giao Chỉ trở lại thành châu Giao, đặt ra Phủ Đô hộ Giao Châu. Khi này, Lĩnh Nam có 5 đô hộ phủ, cai quản châu Giao, châu Quảng, châu Quế, châu Dung, châu Ung, gọi chung là Lĩnh Nam ngũ quản.
Về sau, nhà Đường lại đổi Phủ Đô hộ Giao Châu thành Phủ Đô hộ An Nam. Đây cũng là cột mốc đánh dấu cho tên gọi An Nam trong lịch sử Việt Nam. Chức quan đứng đầu Phủ Đô hộ An Nam lúc bấy giờ được gọi là Kinh lược sứ, sau là Tiết độ sứ. Đồng thời, Nhà Đường lại chia Giao Châu làm 12 châu, đứng đầu mỗi châu là viên quan thứ sử
Nhà Đường coi An Nam là một trọng trấn và tăng cường bóc lột rất nặng dưới nhiều hình thức. Hàng năm, An Nam phải cống nạp nhiều sản vật quý hiếm cùng những sản phẩm thủ công nghiệp. Ngoài ra người Việt khi ấy còn phải chịu nhiều loại tô thuế rất hà khắc mà chính sử nhà Đường phải thừa nhận rằng các quan lại ở An Nam đã đánh thuế rất nặng. Riêng thuế muối tại Lĩnh Nam đã bằng 40 vạn quan tiền, ngoài ra còn có thuế đay, thuế bông, thuế gai cùng nhiều loại thuế ngoại suất.
Do không chịu nổi ách sưu thuế nặng nề, mùa thu năm 687, người châu Giao là Lý Tự Tiên đã đứng lên lãnh đạo nhân dân nổi dậy. Quan nhà Đường cai trị khi đó là Lưu Diên Hựu đã thẳng tay đàn áp, giết Lý Tự Tiên. Nhưng Đinh Kiến, người cùng chí hướng với Lý Tự Tiên, đã mang quân vây đánh ngược trở lại, chiếm được thành Tống Bình, giết tên viên quan này.
Trước tình cảnh đó, nhà Đường phải cho Tào Huyền Tĩnh (Tào Trực Tĩnh) đến dẹp loạn, giết Đinh Kiến. Nhà Đường lại một lần nữa tái lập sự cai trị ở Việt Nam.
Năm 713 (tức 8 năm sau khi Võ Tắc Thiên qua đời), ở châu Hoan có một người tự xưng vương, cho xây thành lũy, lập kinh đô Vạn An. Ông chính là Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế ). năm 714, Mai Hắc Đế tiến đánh Tống Bình, khiến Thái thú nhà Đường là Quang Sở Khách cùng đám thuộc hạ không kịp trở tay, phải bỏ chạy về nước. Phải đến khi nhà Đường cho 10 vạn quân sang nước ta thì mới đàn áp được quân của Mai Hắc Đế.
Năm 791, anh em Phùng Hưng, Phùng Hải lại nổi dậy ở Phủ Đô hộ An Nam, khiến Tiết độ sứ Cao Chính Bình lo sợ phát bệnh mà chết. Phùng Hưng làm chủ được châu Giao, nhưng sau khi ông mất, con trai Phùng An lại đầu hàng Triệu Xương nhà Đường.
Năm 819, người Tày – Nùng khu vực phía Tây Bắc châu Giao nổi dậy chống nhà Đường. Quan cai trị Lý Tượng Cổ (tông thất nhà Đường) sai thứ sử châu Hoan là Dương Thanh mang 3.000 quân đi dẹp. Dương Thanh thừa cơ nổi dậy chiếm được Phủ Đô hộ, giết được Lý Tượng Cổ. Sau tướng nhà Đường là Quế Trọng Vũ dùng kế chia rẽ Dương Thanh với các tướng thuộc hạ. Ông không giữ được thành, cuối cùng bị bắt và bị giết. Các thủ hạ lui về giữ Trường Châu đến tháng 7 năm 820 thì bị dẹp hẳn.
Xuyên suốt thời kỳ nhà Đường ở Trung Quốc, tại Việt Nam diễn ra rất nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ khác nhau, mong muốn giành lại độc lập. Nhiều lần quan đô hộ của nhà Đường đã phải bỏ thành chạy giữ lấy mạng.
Nhưng sau đó thì những cuộc nổi dậy mới thường xuyên và có tổ chức hơn. Đáng chú ý là năm 905, một hào trưởng người Việt tên Khúc Thừa Dụ đã chiếm được phủ Đại La, tự xưng là Tiết độ sứ. Bấy giờ Chu Ôn đang mưu cướp ngôi nhà Đường, đã nhân danh vua Đường thừa nhận Khúc Thừa Dụ. Người Việt cũng khôi phục quyền tự chủ từ đó, chấm dứt giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 3, kéo dài hơn 300 năm.
>> Bất ngờ với số tiền lương, bổng lộc 'đồ sộ' của Bao Thanh Thiên khiến hậu thế sửng sốt