Phụ thuộc hoàn toàn vào nhà cung cấp nước ngoài, Việt Nam chưa khai thác hết tiềm năng của thị trường điện khí
Bình luận về sự phát triển của thị trường điện khí LNG thời gian qua, các chuyên gia khẳng định Việt Nam hiện vẫn đang dừng lại ở vai trò nhập khẩu và tiêu thụ LNG, chưa phát triển được các cơ sở khai thác, hóa lỏng và phụ thuộc hoàn toàn vào các nhà cung cấp LNG nước ngoài.
Chuỗi LNG thành yếu tố quan trọng trong quá trình chuyển dịch năng lượng
Hiện nay, khí tự nhiên hóa lỏng  (LNG) không chỉ được coi là một "giải pháp môi trường" đầy tiềm năng, thay thế hữu hiệu các nguồn năng lượng truyền thống mà còn trở thành một yếu tố quan trọng trong quá trình chuyển dịch năng lượng  trên thế giới.
Chuỗi LNG thành yếu tố quan trọng trong quá trình chuyển dịch năng lượng. |
Theo ông Nguyễn Đức Tùng, Viện Nghiên cứu chiến lược chính sách Công Thương , năm 2023, Việt Nam chính thức ghi tên vào bản đồ LNG toàn cầu với vai trò là nhà nhập khẩu mới.
Với địa lý thuận lợi, gần các tuyến hàng hải quốc tế, hệ thống cảng biển hiện đại, gần các trung tâm LNG lớn của Đông Nam Á, cùng với sự cam kết chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ, Việt Nam đang được biết đến là một nhà nhập khẩu tiềm năng và tương lai sẽ là “mắt xích” quan trọng trong chuỗi LNG toàn cầu nói chung và của khu vực Đông Nam Á nói riêng.
Về phát triển hạ tầng LNG, Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng, đánh dấu vai trò mới trong chuỗi cung ứng LNG toàn cầu. Kho cảng LNG Thị Vải, một trong những dự án tiên phong, đã đi vào vận hành với công suất giai đoạn đầu đạt 1 MTPA và dự kiến mở rộng lên 3 MTPA, trở thành hình mẫu cho các cơ sở tương lai.
Các dự án cụm cảng LNG trọng điểm khác như Hải Linh, Sơn Mỹ và Đình Vũ đang được triển khai mạnh mẽ, không chỉ tăng cường năng lực lưu trữ và tái khí hóa mà còn tạo động lực cho phát triển kinh tế địa phương.
Thêm vào đó, việc hoàn thành và chuẩn bị đưa vào vận hành nhà máy nhiệt điện Nhơn Trạch 3 và 4, những nhà máy nhiệt điện khí LNG đầu tiên tại Việt Nam với tổng công suất 1.624 MW, sẽ tạo nền tảng vững chắc cho việc tăng cường sử dụng LNG trong tương lai, thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng và tăng tính hấp dẫn của thị trường LNG Việt Nam đối với các nhà đầu tư quốc tế.
“Những thành tựu này không chỉ đáp ứng nhu cầu năng lượng quốc gia mà còn tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam thực hiện cam kết giảm phát thải và nâng cao vị thế quốc gia”, ông Tùng khẳng định.
>>EVN, PVN, Vinalines hợp tác với doanh nghiệp Phần Lan thúc đẩy các dự án năng lượng tái tạo 
L ượng tiêu thụ LNG của Việt Nam còn rất thấp
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, ông Nguyễn Đức Tùng cũng chỉ ra rằng, do mới phát triển nên lượng tiêu thụ LNG của Việt Nam còn rất thấp. Năm 2023 tổng sản lượng nhập khẩu đạt xấp xỉ 0,1 MT, chỉ chiếm 0,02% tổng lượng LNG nhập khẩu toàn cầu.
Lượng tiêu thụ LNG của Việt Nam còn rất thấp. |
Song, dự báo nhu cầu LNG của Việt Nam sẽ khoảng 15 -20 MTPA vào năm 2030 và khoảng 20-25 MTPA năm 2035.
Bên cạnh đó, Việt Nam hiện vẫn đang dừng lại ở vai trò nhập khẩu và tiêu thụ LNG, chưa phát triển được các cơ sở khai thác, hóa lỏng và phụ thuộc hoàn toàn vào các nhà cung cấp LNG nước ngoài.
“Hiện, Việt Nam đang chỉ mới tiếp xúc với thị trường LNG mua giao ngay, chưa ký bất kỳ hợp đồng mua bán LNG dài hạn nào. Việc phụ thuộc vào các giao dịch ngắn hạn làm cho giá LNG thường xuyên biến động, chịu tác động từ các yếu tố bên ngoài như thị trường quốc tế, chính sách xuất nhập khẩu của các nước cung cấp, và các biến động giá nhiên liệu”, ông Tùng cho hay.
Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của các nhà máy điện và các cơ sở công nghiệp mà còn gây khó khăn trong việc lập kế hoạch đầu tư và hoạt động lâu dài.
Đồng quan điểm, bà Đặng Thị Thủy, Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Bộ Công Thương cũng chỉ ra những vướng mắc trong việc nhập khẩu LNG.
Cụ thể, do gia nhập thị trường LNG quốc tế muộn, Việt Nam buộc phải tuân thủ các thông lệ quốc tế được định sẵn trong quá trình nhập khẩu LNG. Thêm vào đó, cơ sở vật chất và hành lang pháp lý cho việc nhập khẩu LNG đang trong giai đoạn hoàn thiện, chưa thể đáp ứng được nhu cầu hiện tại.
Ngoài ra, yếu tố ngoại cảnh như tình hình địa chính trị trên thế giới căng thẳng với cuộc xung đột Nga - Ukraine, tạo nên nhiều biến động lớn về nguồn cung và mức giá LNG trong thời gian tới cũng là nguyên nhân khiến cho việc nhập khẩu LNG của Việt Nam trở nên khó khăn.
Ông Lã Hồng Kỳ, Văn phòng Ban Chỉ đạo Nhà nước các dự án ngành năng lượng nhìn nhận, trong việc đầu tư các dự án điện khí cũng gặp không ít khó khăn. Một số tỉnh chưa tiến hành lựa chọn được nhà đầu tư do còn lúng túng, chậm trễ trong công tác phê duyệt chủ trương đầu tư, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, hiện chưa rõ chủ đầu tư các đường dây đấu nối đồng bộ do một số đường dây đấu nối đồng bộ để giải tỏa công suất cho các dự án nhà máy điện lớn chưa được giao chủ đầu tư, ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện các dự án đường dây và việc đàm phán các thỏa thuận đấu nối giải tỏa công suất cho một số dự án điện khí.
Một số chủ đầu tư nước ngoài còn yêu cầu thêm bảo lãnh chính phủ như bảo lãnh chuyển đổi ngoại tệ, bảo lãnh thnah toán và bảo lãnh chấm dứt hợp đồng của EVN, bảo lãnh rủi ro tiến độ đường dây truyền tải điện.
Ngoài ra, còn khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, điều chỉnh quy hoạch cục bộ, công tác bàn giao đất, cho thuê đất đối với dự án nguồn và tuyến đường dây đấu nối đồng bộ để giải tỏa công suất cho các dự án.