Không làm bài, nhưng nhờ tấm lòng lương thiện, có công hộ giá ông vẫn được chấm đỗ Tiến sĩ, lưu tên bảng vàng.
Học không giỏi nhưng đi thi theo lời khuyên của người lạ
Nguyễn Trật sinh năm 1573, người làng Nguyệt Viên, huyện Hoằng Hóa (nay thuộc xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa ). Tương truyền ông là người cao lớn khỏe mạnh, lại siêng năng học hành; nhưng vì tối dạ nên đọc sách nhiều nhưng lại không nhớ nổi lấy trang, nên sau một thời gian chuyên cần ông không còn màng đến sách vở nữa.
Theo sách Tang thương ngẫu lục, không còn vương vấn con đường công danh, khoa cử, nhưng lúc bấy giờ có một thầy địa lý đi chơi qua làng Nguyệt Yên, thấy Nguyễn Trật hiền lành, lễ độ nên đã khuyên ông nên tiếp tục con đường khoa cử.
Sau khi được thầy địa lý khuyên bảo, Nguyễn Trật lại tìm thầy miệt mài kinh sử, chăm chú việc đèn sách. Năm ông 40 tuổi, triều đình mở khoa thi Hội, Nguyễn Trật một lần nữa miễn cưỡng lều chõng đi thi.
Dù học không giỏi, nhờ có người quen biết cùng ở trọ một nhà chỉ bảo cho nên ông đã thi đỗ trường nhất, trường nhì và trường ba trong kỳ thi Hội. Đến trường thi thứ tư - trường thi cuối cùng trong kỳ thi Hội, bạn bè của Nguyễn Trật đã rơi rớt hết cả, chẳng còn ai giúp có thể giúp đỡ ông nữa.
Sách Tang thương ngẫu lục chép rằng khi đang làm bài ở trường thi thứ tư, ở lều bên cạnh có một thí sinh vật vã ôm bụng kêu đau, hỏi ra mới biết đó chính là viên nho sinh quê ở làng Bột Thái. Vì có mang theo gừng bên người nên Nguyễn Trật đã đem nước gừng đổ cho nho sinh uống.
Để cảm tạ ân nhân, người ấy lấy quyển thi của mình ra và nói: "Đây là bài thi rất đắc ý của tôi nhưng chưa đề tên vào, nay xin tặng ông để đền ơn. Xin ông cõng tôi ra khỏi trường, tôi dù có phải chết cũng chẳng ân hận gì nữa". Nghe bạn thỉnh cầu, Nguyễn Trật bỏ thi để cõng nho sinh ra khỏi trường.
Vì bệnh nặng, không lâu sau đó, nho sinh đã qua đời. Nguyễn Trật nhận bài thi của người này, quay lại trường thi. Vì bài thi làm chưa xong nên ông viết thêm phần cuối, ký tên mình vào bài rồi nộp cho quan trường. Khi chấm thi, thấy bài của Nguyễn Trật phần đầu viết rất hay, nhưng đến phần sau thì câu cú kém hẳn. Tuy vậy, bài thi vẫn được chấm đỗ, Nguyễn Trật cùng 7 người khác vào dự thi Đình.
Nho sinh may mắn nhất khoa cử Việt
Vào đến thi Đình, Nguyễn Trật không sao làm bài được bèn bỏ giấy trắng nộp bài. Cho rằng Nguyễn Trật ngông nghênh nên nộp giấy trắng nên Triều đình rất tức giận. Theo lệ thì 7 người vào đến thi Đình thì đều đậu hết, chỉ là định ra thức bận tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) và Tiến sĩ. Thế nhưng vì cho rằng Nguyễn Trật ngông cuồng không chịu làm bài mà bỏ giấy trắng nên Triều đình  dự tính không treo bảng vàng cho ông đậu.
Trong khi Triều đình dự định xóa tên ông khỏi tất cả các kỳ thi và cân nhắc hình thức xử phạt thì trong Triều có biến, chúa Trịnh Tùng ốm nặng không qua khỏi liền trao quyền bính lại cho con cả là Trịnh Tráng, một người con khác là Trịnh Xuân đem quân tranh giành quyền với anh mình, giao tranh khiến kinh thành hỗn loạn, Trịnh Tráng vội rước Vua vào Thanh Hóa.
Về sự việc này Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Quý Hợi (năm 1623) tại Văn Miếu có ghi rằng: “Đến ngày tháng 6 mùa hạ, gặp thời tiết sấm chớp mưa gió, các quan văn võ tạm rước thánh giá hồi loan để củng cố căn bản, hòa hợp lòng dân để nước nhà được thêm lớn lao rạng tỏ.”
Trong lúc hỗn loạn, Nguyễn Trật có công lớn khi hộ giá nhà Vua đến Thanh Hóa, vì thế sau đó việc trừng phạt được bỏ qua. Cuối cùng ông vẫn được cho đậu Tiến sĩ, và có lẽ đây là trường hợp giấy trắng vẫn đậu vị Tiến sĩ đặc biệt có một không hai trong lịch sử.
Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm 1623 có đề như sau: “Ngày lành tháng tư mùa hạ, Hoàng thượng ngự ở cửa điện Kính Thiên, ra bài văn sách ở sân rồng. Trong khi các sĩ tử làm bài, bỗng có Nguyễn Trật làm văn hơi sai thể thức, nên chỉ có 6 quyển được khảo duyệt mà thôi. Các quan hữu ty dâng quyển tiến đọc. Hoàng thượng ngự lãm, lấy Phùng Thế Trung đỗ đầu, 6 người còn lại đều cho đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân.
Vả xét theo lệ cũ, những người được vào thi Đình thì không bị truất nên vẫn cho Nguyễn Trật đỗ cuối bảng, tất cả là 7 người. Vì việc ấy mà kéo dài việc xướng danh yết bảng, đến việc ban cấp áo mũ, yến tiệc vinh quy cũng đều chưa làm đúng lệ cũ. Lúc bấy giờ kẻ sĩ trong nước đều buồn bực trong lòng.
Đến ngày tháng 6 mùa hạ, gặp thời tiết sấm chớp mưa gió các quan văn võ tạm rước thánh giá hồi loan để củng cố căn bản, hòa hợp lòng dân để nước nhà được thêm lớn lao rạng tỏ”
Sau này Nguyễn Trật làm quan đến chức Công khoa Đô Cấp sự trung. Dù ông không có văn hay, nhưng tính tình hiền lành thương yêu dân chúng, làm quan rất thanh liêm, người dân yêu mến gọi ông là quan Nghè Nguyệt Viên.
>> Văn miếu rộng 1.800m2 duy nhất tại thành phố cảng ghi danh các Tiến sĩ thời phong kiến