Từ nhỏ, vị trí tướng này đã có trí thông minh hơn người nên khi lớn lên, ông cho thấy được tài năng, bản lĩnh hiếm có.
(TyGiaMoi.com) - Thông minh, xuất chúng từ nhỏ
Theo gia phả hệ họ Nguyễn, Nguyễn Hữu Dật là cháu đời thứ 18 của Định Quốc công Nguyễn Bặc (thời nhà Đinh) và là cháu 7 đời của công thần Nguyễn Công Duẩn (thời Lê sơ), cùng họ nhưng là chi trên, thuộc dòng tộc Nguyễn Gia Miêu (Tống Sơn, Hà Trung, Thanh Hóa) với các chúa đầu nhà Nguyễn (Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng…).
Ông sinh năm 1603 ở kinh đô  nước Đại Việt thời vua Lê - chúa Trịnh. Đến năm 1608, kể cả "tuổi mụ" là 6 tuổi, thì theo cha là Tham tướng triều Lê Trịnh, Nguyễn Triều Văn rời Thăng Long vào Nam định cư ở làng Vạn Toàn (sau đổi tên thành Vạn Xuân), tổng Hoành Phố, huyện Khang Lộc, phủ Quảng Bình, nay là thôn Bến, xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.
Theo sách "Đại Nam chính biên liệt truyện" có ghi: "Chưa đến tuổi lên mười mà Nguyễn Hữu Dật đã biết chơi trò bày trận cùng trẻ nhỏ trong miền, đặt trống chiêng cờ xí, tự nhận mình là đại tướng. Cho nên, chỉ mới đến tuổi 16, họ Nguyễn Hữu đã được chúa Nguyễn Phúc Nguyên để mắt tới, chọn tuyển làm văn chức ở dinh Chúa. Nhưng, do vẫn còn tính xốc nổi của tuổi trẻ nên Nguyễn Hữu Dật được chúa Nguyễn sai Triều Văn đưa về nhà, tiếp tục rèn cặp, để sau này mới sử dụng.
Cho đến năm 1626, một năm trước khi bùng nổ cuộc Trịnh - Nguyễn phân tranh, ở tuổi 23, ông mới chính thức được gọi vào cung, được giao nhận quan chức - vẫn là chức văn quan. Lập tức, Nguyễn Hữu Dật cho thấy khả năng mưu trí đánh giặc của mình, ở cuộc chiến tranh lần thứ nhất giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong, năm 1627.
Cũng vào thời gian đó, Nguyễn Hữu Dật bắt đầu có thêm người thầy được coi như người cha thứ hai của mình là cụ Đào Duy Từ. Hai người thường xuyên đàm đạo về việc quân, cũng như là chính sự. Thậm chí, ông sát cánh cùng Đào Duy Từ trong việc xây lắp hệ thống Lũy Thầy vào các năm 1630-1631, Nguyễn Hữu Dật đã nhanh chóng trưởng thành trở nên bậc "trí tướng" nổi danh, ngay khi còn "tam thập nhi lập" (chưa đến 30 tuổi).
Sự nghiệp lẫy lừng
Năm 1627, khi 24 tuổi, Nguyễn Hữu Dật lần đầu tiên đi trận với chức giám (sát) chiến (trường) chống lại cuộc chiến tranh do chúa Trịnh Tráng từ Đàng Ngoài đưa quân vào đánh. Bằng trí thông minh hơn người, ông đã biết dùng kế ly gián tung tin: “Ngoài Thăng Long, những kẻ phản thần đang âm mưu gây loạn, khiến chúa Trịnh hoang mang, lo lắng chuyện thực hư, cuối cùng phải rút quân về”.
Ở các lần chiến tranh tiếp theo, kế phản gián và ly gián càng được Nguyễn Hữu Dật cho thi thố nên ngày một khéo léo và lợi hại hơn. Như vào năm 1640, cả tướng Trịnh là Trịnh Khắc Liệt lẫn chúa Trịnh Tráng đều bị trúng kế của Nguyễn Hữu Dật, quay ra đánh giết lẫn nhau, khiến tổn thất lớn, mất cả vùng Bắc Bố Chính vào tay xứ Đàng Trong.
Ở lần chiến tranh thứ năm, cũng là lần duy nhất trong bảy lần giao tranh, Đàng Trong giao quyền tiết chế cho tướng Nguyễn Hữu Tiến, giúp việc Đốc chiến là Nguyễn Hữu Dật đưa lực lượng vượt sông Gianh ra ngoài xứ Nghệ đánh quân chúa Trịnh . Nhờ tài xem thiên văn địa lý ứng vào việc quân, Nguyễn Hữu Dật đã giúp ông hai lần (vào các năm 1657 và 1658) khai thác, lợi dụng được đúng lúc mưa gió lụt lội đánh thắng lớn, khiến Nguyễn Hữu Tiến (như thấy chép trong sách "Đại Nam liệt truyện") phải hết lời khen ngợi: "Ông sao mà tính toán giỏi như thần vậy?".
Nhận xét về danh tướng Nguyễn Hữu Dật, sách "Địa chí huyện Hà Trung" dẫn theo "Đại Nam thực lục tiền biên" đã viết: “Hữu Dật là người sáng suốt, có tài thao lược, đầu do tư cách văn chức được dùng làm giám chiến chức danh vốn đã rõ ràng, đến khi làm tướng thì nhiều lần dựng bày mưu lớn, đương thời lấy làm ỷ trọng, từng được ví với Khổng Minh (Gia Cát Lượng), Lưu Bá Ôn. Sau khi chết, dân Quảng Bình nhớ tiếc, gọi là Bồ Tát, lập đền thờ ở Thạch Xá”.
Cùng với việc mưu trí tấn công, Nguyễn Hữu Dật còn nổi tiếng là tướng đánh phòng ngự giỏi. Ông chính là người đầu tiên cùng với Đào Duy Từ đắp nên hệ thống Lũy Thầy nổi tiếng, bắt đầu từ núi Đầu Mâu (nay ở làng Lệ Kỳ, xã Vĩnh Ninh, huyện Quảng Ninh) và kết thúc ở cửa biển Nhật Lệ (Đồng Hới). Dựa vào đây, ông tổ chức các trận đánh phòng ngự hết sức hữu hiệu, với kết quả chung là: Tất cả các lần đưa quân từ Đàng Ngoài vào tấn công Đàng Trong, các chúa Trịnh đều không lần nào vượt qua được hệ thống công sự phòng ngự này.
Những trận đánh lớn như trận năm 1648, Nguyễn Hữu Dật sát cánh cùng cha là tướng Nguyễn Triều Văn giữ lũy, nhiều lần tưởng lũy đã vỡ nhưng cả hai cha con đều kiên quyết tử thủ, khiến cuối cùng đánh lui được quân Trịnh. Đến năm 1672, lũy Trấn Ninh bị quân Trịnh phá vỡ mất đến 30 trượng nhưng Nguyễn Hữu Dật vẫn sai quân bó củi và cỏ khô đốt sáng rực trong đêm. Bởi vậy mà quân Trịnh ngỡ là có quân mai phục, không dám đến gần, đoạn, đốc thúc dựng ván làm phên, lấy sọt tre đựng đất để đắp vá chỗ bị vỡ, khiến sáng hôm sau quân Trịnh đến đánh tiếp thì lũy đã bồi xong, không phá được nữa.
Trận giữ lũy thắng lợi này còn có sự góp mặt cả những con trai của Nguyễn Hữu Dật, cùng sát cánh bên người cha lão tướng đã cận kề tuổi 70, cũng là trận cuối cùng, kết thúc cuộc Trịnh - Nguyễn phân tranh, với bảy lần chiến tranh, kéo dài 45 năm.