Vĩ mô

TS. Lê Duy Bình: Cải cách thể chế phải tạo động lực để doanh nghiệp tư nhân bứt phá

Trường Thanh 26/02/2025 12:05

Khu vực kinh tế tư nhân đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP và tạo việc làm. Tuy nhiên, để doanh nghiệp tư nhân thực sự bứt phá, cải cách thể chế cần trở thành động lực then chốt, thúc đẩy một môi trường kinh doanh minh bạch, ổn định và có tính cạnh tranh cao.

Ngày 10/02/2025, tại Hội nghị Thường trực Chính phủ với các doanh nghiệp tư nhân, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh rằng cải cách thể chế chính là "đột phá của đột phá" nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang đặt mục tiêu chuyển đổi mạnh mẽ, doanh nghiệp tư nhân hiện đóng góp khoảng 50% GDP, chiếm hơn 56% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tạo ra khoảng 80% việc làm.

Tuy nhiên, khu vực này vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản thể chế, từ sự chồng chéo trong hệ thống pháp luật đến những hạn chế trong chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo và đầu tư dài hạn. Vì vậy, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với TS. Lê Duy Bình, Giám đốc điều hành Economica Việt Nam, một chuyên gia kinh tế uy tín với nhiều năm nghiên cứu về môi trường kinh doanh và cải cách thể chế.

ldb1.jpg
TS. Lê Duy Bình hiện là Giám đốc điều hành Economica Việt Nam, một chuyên gia kinh tế hàng đầu với nhiều năm nghiên cứu về cải cách thể chế, môi trường kinh doanh và phát triển khu vực kinh tế tư nhân.

PV: Tại Hội nghị Thường trực Chính phủ ngày 10/02, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh rằng cải cách thể chế là "đột phá của đột phá" để nâng cao hiệu quả kinh tế. Theo ông, đâu là những yếu tố cốt lõi trong cải cách thể chế có thể tác động mạnh mẽ nhất đến năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) và khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong trung và dài hạn?

TS. Lê Duy Bình: Cải cách thể chế có ý nghĩa then chốt trong việc nâng cao hiệu quả nền kinh tế, năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) và có ý nghĩa quyết định đối với khả năng chuyển dịch sang mô hình tăng trưởng mới, một mô hình dựa nhiều hơn vào hiệu quả, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Mô hình kinh tế này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để Việt Nam thoát bẫy thu nhập trung bình và gia nhập nhóm các kinh thế phát triển, thu nhập cao.

Trọng tâm của cải cách thể chế cần tập trung vào hai khía cạnh chính: hệ thống quy định pháp luật và khung khổ pháp lý, và song song với điều đó là cải cách các tổ chức, các định chế và cách thức vận hành bộ máy thực thi chính sách và quy định pháp luật.

Trước tiên, về hệ thống quy định pháp luật, Việt Nam cần tiếp tục thúc đẩy các nguyên tắc nền tảng như bảo vệ mạnh mẽ quyền tài sản của người dân và doanh nghiệp, cũng như củng cố quyền tự do kinh doanh theo hướng mọi cá nhân, tổ chức được quyền thực hiện các hoạt động kinh doanh mà pháp luật không cấm. Đây là nguyên tắc quan trọng giúp xây dựng một môi trường kinh doanh an toàn, thuận lợi, minh bạch, ổn định và có tính tiên liệu cao, qua đó nâng cao niềm tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Hệ thống pháp luật cần được định hình theo hướng không chỉ phục vụ mục tiêu quản lý của cơ quan nhà nước, mà còn đóng vai trò kiến tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn, chi phí thấp và tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế. Hệ thống pháp luật phải sử dụng nhuần nhuyễn các công cụ và cơ chế thị trường, khai thông được nguồn lực để phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội. Điều này cho phép doanh nghiệp mạnh dạn bỏ vốn kinh doanh, an tâm khi đầu tư vào các mô hình kinh doanh mới, sản phẩm và dịch vụ mới mà chưa từng có tiền lệ, từ đó thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Một hệ thống pháp lý linh hoạt, hiệu quả đồng bộ, nhất quán cũng sẽ giúp Việt Nam nâng cao vị thế trong bản đồ định vị địa điểm đầu tư quốc tế nhằm thu hút đầu tư, vốn, công nghệ, nhân lực, các nguồn lực khác cho phát triển.

Bên cạnh đó, cải cách thể chế cần khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển (R&D), đầu tư vào khoa học - công nghệ, và ứng dụng đổi mới sáng tạo. Điều này đồng nghĩa với việc cần thiết lập các cơ chế pháp lý hỗ trợ các hoạt động có mức độ rủi ro cao nhưng mang lại lợi ích đột phá về năng suất và công nghệ. Một số chính sách có thể áp dụng bao gồm cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (regulatory sandbox), chính sách ưu đãi thuế và tín dụng dành cho các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, cũng như các biện pháp hỗ trợ hấp thụ và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Hệ thống pháp luật cần khuyến khích được tinh thần đầu tư mạo hiểm, dám chấp nhận rủi ro và hình thành được hệ sinh thái để hỗ trợ cho các dự án đầu tư mạo hiểm, các ý tưởng kinh doanh của các doanh nghiêp, dù là doanh nghiệp lớn hay nhỏ.

Cùng với đó, hệ thống pháp luật cũng cần được cải cách theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thiểu chi phí tuân thủ pháp luật, và hạn chế tối đa rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp. Những chi phí tuân thủ cao và các bất định về pháp lý không chỉ làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế mà còn tác động tiêu cực đến niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp. Do đó, việc cải cách phải hướng đến việc loại bỏ các rào cản, giấy phép kinh doanh, điều kiện kinh doanh không cần thiết, nâng cao hiệu quả điều hành và tạo dựng một hệ thống pháp lý rõ ràng, minh bạch, dễ tiếp cận.

Bên cạnh hệ thống pháp luật, yếu tố không kém phần quan trọng trong cải cách thể chế chính là tổ chức và vận hành bộ máy thực thi chính sách. Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình tinh gọn bộ máy hành chính nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan công quyền. Bộ máy nhà nước phải được tổ chức theo hướng phục vụ doanh nghiệp và người dân, thay vì chỉ đơn thuần đóng vai trò quản lý hành chính. Điều này đòi hỏi sự chuyển đổi từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo phát triển, thể hiện qua việc cải thiện chất lượng dịch vụ công, đẩy nhanh tiến độ xử lý thủ tục hành chính, và nâng cao tính minh bạch trong quá trình ra quyết định.

Việc cắt giảm các thủ tục cấp phép không cần thiết và đơn giản hóa quy trình thủ tục hành chính như chấp thuận đầu tư, đất đai, xây dựng cũng là một trọng tâm quan trọng. Khi môi trường kinh doanh trở nên minh bạch hơn, chi phí giao dịch thấp hơn và thủ tục hành chính nhanh chóng hơn, Việt Nam sẽ nâng cao đáng kể năng lực cạnh tranh quốc gia, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để thu hút dòng vốn đầu tư chất lượng cao.

Trong tổng thể, cải cách thể chế phải đảm bảo sự hài hòa giữa ba yếu tố: thúc đẩy tự do kinh doanh và bảo vệ quyền tài sản; khuyến khích đổi mới sáng tạo và đầu tư vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao; nâng cao hiệu quả bộ máy hành chính và giảm thiểu chi phí tuân thủ pháp luật. Khi thực hiện đồng bộ những cải cách này, Việt Nam không chỉ gia tăng năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh dài hạn của nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển bền vững.

PV: Thực tế cho thấy, cải cách thể chế không chỉ tạo động lực tăng trưởng mà còn quyết định chất lượng phát triển của khu vực doanh nghiệp tư nhân. Theo ông, đâu là những rào cản chính sách lớn nhất hiện nay mà kinh tế tư nhân cần được tháo gỡ để nâng cao hiệu suất hoạt động và khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế?

TS. Lê Duy Bình: Trong hơn ba thập kỷ qua, khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, chuyển mình từ một thành phần kinh tế còn nhỏ lẻ, manh mún thành một trụ cột quan trọng của nền kinh tế. Hiện nay, khu vực này đóng góp khoảng 50% GDP, chiếm khoảng 56% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tạo ra khoảng 80% việc làm và đóng góp cho gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu. Những con số này phản ánh vai trò rất quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong sự phát triển của đất nước. Sự trỗi dậy mạnh mẽ này có được là nhờ những cải cách thể chế đã và đang diễn ra, giúp tháo gỡ các rào cản, giải phóng nguồn lực và tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân tham gia sâu hơn vào hoạt động sản xuất - kinh doanh.

Tuy nhiên, để khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển bứt phá, đóng góp mạnh mẽ hơn vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững và mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, cần phải giải quyết một số rào cản chính sách còn tồn tại. Một trong những vấn đề lớn nhất là môi trường kinh doanh vẫn còn nhiều bất cập, với chi phí tuân thủ cao với nhiều rủi ro pháp lý xuất phát từ các quy định pháp luật không rõ ràng, kém tính tiên liệu và từ cách áp dụng pháp luật của cơ quan công quyền. Nhiều doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn trong việc mở rộng quy mô, đầu tư vào các lĩnh vực mới hay đầu tư mạo hiểm để đổi mới mô hình kinh doanh, hình thành sản phẩm, dịch vụ mới do sự bất định của chính sách và quy định pháp lý chưa thực sự rõ ràng, đồng bộ, nhất quán.

Rủi ro pháp lý không chỉ xuất phát từ sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật, mà còn từ tình trạng thực thi thiếu nhất quán giữa các địa phương và cơ quan quản lý. Điều này khiến doanh nghiệp tư nhân do dự khi quyết định khởi nghiệp hay khi mở rộng hoạt động, hay quyết định đầu tư vào các dự án có quy mô lớn hoặc thử nghiệm các sản phẩm, mô hình kinh doanh chưa có tiền lệ. Nếu không có sự cải thiện đáng kể về môi trường pháp lý, khu vực kinh tế tư nhân sẽ tiếp tục đối diện với những rào cản khiến họ chưa thể khai thác hết tiềm năng tăng trưởng.

Một thách thức khác là vấn đề về quyền tài sản và cơ chế bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến trong việc đảm bảo quyền tài sản, nhưng vẫn còn nhiều điểm nghẽn trong thực tế triển khai. Hiện tượng hình sự hoá các quan hệ kinh tế, tình trạng thiếu hiệu quả trong giải quyết tranh chấp kinh tế, việc thực thi hợp đồng còn nhiều bất cập, và nguy cơ thay đổi chính sách đột ngột làm ảnh hưởng tới niềm tin của doanh nghiệp vào môi trường đầu tư. Nếu rủi ro pháp lý liên quan đến quyền tài sản không được kiểm soát tốt, các doanh nghiệp sẽ tiếp tục e ngại việc mở rộng quy mô và đầu tư dài hạn.

Một vấn đề nữa là cấu trúc doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam còn mất cân đối về cơ cấu. Phần lớn doanh nghiệp vẫn là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, trong khi số lượng doanh nghiệp cỡ vừa còn hạn chế. Điều này khác biệt so với các nền kinh tế phát triển có sự phát triển mạnh mẽ của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) như Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc hay Đài Loan, nơi có một cấu trúc các doanh nghiệp nhỏ và vừa hợp lý hơn với tỷ trọng các doanh nghiệp vừa cao hơn rất nhiều và cũng là nơi có một hệ sinh thái doanh nghiệp đa tầng, trong đó doanh nghiệp quy mô vừa đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng và công nghiệp hỗ trợ. Việc thiếu vắng các doanh nghiệp cỡ vừa khiến nền kinh tế gặp khó khăn trong việc hình thành các doanh nghiệp lớn, không phát huy được các lợi thế về quy mô, ảnh hưởng tới năng suất tổng thể, ảnh hưởng tới việc huy động được nguồn lực để đầu tư vào nghiên cứu - phát triển (R&D), đổi mới sáng tạo. Nó cũng khiến nền kinh tế thiếu lực lượng dự bị để trở thành doanh nghiệp lớn và từ đó ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.

Để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân, cần có các chính sách có tính kiến tạo để doanh nghiệp trong khu vực phi chính thức chuyển đổi thành doanh nghiệp, để các doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi thành doanh nghiệp quy mô lớn hơn, để các doanh nghiệp lớn sẽ nâng cao được năng lực và trở thành động lực, hạt nhân tăng trưởng của một ngành, một khu vực hay một cụm doanh nghiệp.

Một khu vực doanh nghiệp năng động, có sức cạnh tranh cao cùng với một hệ sinh thái thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân phát triển sẽ giúp nâng cao năng suất lao động, tận dụng lợi thế kinh tế theo quy mô, chuyển dịch sang những ngành có trình độ công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, đón đầu được những xu thế phát triển mới như ngành công nghiệp bán dẫn, kinh tế số và từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam sang một nền kinh tế dựa trên hiệu quả và sáng tạo.

Bên cạnh đó, các chính sách cần tập trung vào việc cải thiện khả năng tiếp cận nguồn lực, bao gồm vốn, đất đai, công nghệ và lao động chất lượng cao. Hiện nay, doanh nghiệp tư nhân vẫn gặp nhiều trở ngại trong việc tiếp cận tài chính, đặc biệt là các khoản vay dài hạn để đầu tư vào sản xuất và công nghệ. Hệ thống tín dụng và thị trường vốn cần được cải cách theo hướng linh hoạt hơn để đáp ứng nhu cầu tài chính đa dạng của doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời, cần có các chính sách hỗ trợ để doanh nghiệp tư nhân có thể tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường.

Việc tiếp tục cải cách thể chế, giảm thiểu các rào cản hành chính và tạo lập một môi trường kinh doanh thân thiện hơn sẽ giúp doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn. Điều này không chỉ giúp khu vực kinh tế tư nhân đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng GDP, mà còn tạo ra động lực quan trọng để Việt Nam dịch chuyển sang mô hình phát triển bền vững, lấy đổi mới sáng tạo và công nghệ làm động lực chính.

PV: Hiệu suất sử dụng vốn và tỷ suất sinh lợi trên tài sản của khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam mặc dù đã có cải thiện nhưng vẫn còn thấp so với các nền kinh tế phát triển, phản ánh hiệu quả đầu tư chưa cao. Theo ông, nguyên nhân chính của tình trạng này xuất phát từ vấn đề nội tại của doanh nghiệp hay từ yếu tố thể chế và môi trường kinh doanh?

TS. Lê Duy Bình: Nguyên nhân của tình trạng này không thể quy hoàn toàn về một phía, mà xuất phát từ cả hai khía cạnh: những hạn chế trong thể chế và môi trường kinh doanh, cũng như những vấn đề nội tại của doanh nghiệp tư nhân. Chúng ta không thể mãi đổ lỗi cho cơ chế hay môi trường kinh doanh, bởi lẽ trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể trong việc cải thiện chính sách, nâng cao tính minh bạch và giảm bớt rào cản hành chính cho doanh nghiệp. Mặc dù vẫn còn những điểm nghẽn cần tháo gỡ, nhưng rõ ràng, doanh nghiệp tư nhân cũng phải tự hoàn thiện, nâng cao năng lực quản trị và chiến lược phát triển để cải thiện hiệu quả đầu tư.

Một trong những điểm yếu cốt lõi của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam là năng lực quản trị doanh nghiệp chưa theo kịp các tiêu chuẩn quốc tế. Không ít doanh nghiệp vẫn vận hành theo mô hình gia đình trị, thiếu tính chuyên nghiệp trong cơ cấu tổ chức và quản lý. Việc áp dụng các nguyên tắc quản trị hiện đại, như quản trị tài chính minh bạch, chiến lược dài hạn, và kiểm soát rủi ro vẫn còn hạn chế. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất sử dụng vốn, làm giảm khả năng tối ưu hóa nguồn lực và gia tăng giá trị từ hoạt động đầu tư.

Bên cạnh đó, tư duy kinh doanh ngắn hạn vẫn còn phổ biến ở một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp tư nhân. Nhiều doanh nghiệp tập trung vào việc tối đa hóa lợi nhuận trong ngắn hạn thay vì đầu tư vào nghiên cứu - phát triển (R&D), đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động và thực hiện các trách nhiệm xã hội, môi trường (ESG). Điều này khiến họ gặp khó khăn trong việc mở rộng quy mô, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong khi đó, tại các nền kinh tế phát triển, phần lớn doanh nghiệp đã chuyển sang mô hình kinh doanh bền vững, lấy đổi mới sáng, nâng cao giá trị gia tăng làm nền tảng phát triển.

Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, môi trường kinh doanh vẫn còn những hạn chế nhất định ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của khu vực tư nhân. Chi phí tuân thủ pháp luật, sự thiếu nhất quán trong thực thi chính sách giữa các địa phương và rủi ro pháp lý vẫn là những rào cản đáng kể. Một số lĩnh vực kinh doanh còn bị kiểm soát chặt chẽ hoặc chịu tác động của các quy định chưa thực sự phù hợp với thực tiễn, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn lực, mở rộng thị trường và tối ưu hóa dòng vốn.

Việc tiếp cận tài chính cũng là một trở ngại lớn. Hệ thống tài chính của Việt Nam vẫn còn phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng ngân hàng, trong khi thị trường vốn chưa phát triển mạnh mẽ để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân huy động vốn dài hạn với chi phí hợp lý. Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, từ đó ảnh hưởng đến khả năng đầu tư vào các dự án dài hạn và nâng cao năng lực sản xuất.

Một vấn đề khác là khả năng hội nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam còn hạn chế. Trong khi nhiều nước có hệ sinh thái doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng, thì tại Việt Nam, phần lớn doanh nghiệp tư nhân vẫn đang ở quy mô nhỏ lẻ, chưa thể tham gia vào các chuỗi giá trị lớn. Nguyên nhân không chỉ đến từ năng lực nội tại của doanh nghiệp, mà còn từ chính sách hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả trong việc kết nối doanh nghiệp nội địa với các tập đoàn đa quốc gia, cũng như chưa có các biện pháp thúc đẩy chuyển giao công nghệ mạnh mẽ.

Vì vậy, để nâng cao hiệu quả đầu tư và tỷ suất sinh lợi trên tài sản, doanh nghiệp tư nhân không chỉ cần đến sự hỗ trợ từ chính sách, mà quan trọng hơn, họ phải chủ động nâng cao năng lực nội tại. Cần một sự chuyển dịch mạnh mẽ trong tư duy kinh doanh, từ việc chỉ tập trung vào lợi nhuận ngắn hạn sang chiến lược dài hạn, chú trọng vào đổi mới sáng tạo, quản trị doanh nghiệp hiện đại, tối ưu hóa hiệu quả sử dụng vốn con người, thực hiện tốt các trách nhiệm xã hội, môi trường. Chúng ta cũng mong mỏi các doanh nghiệp sẽ có tinh thần mạnh mẽ trong việc phụng sự xã hội, phụng sự đất nước và cùng nỗ lực đóng góp để hiện thực hoá hoài bão về một đất nước Việt Nam mạnh mẽ, hùng cường, phồn vinh và thịnh vượng. Nếu không có sự thay đổi mạnh mẽ về tư duy trong chính các doanh nghiệp như vậy, ngay cả khi môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện, hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp tư nhân cũng khó có thể đạt được mức tối ưu so với các nền kinh tế phát triển.

PV: Việt Nam đã thu hút dòng vốn FDI lớn trong nhiều năm qua, nhưng mức độ lan tỏa công nghệ và giá trị gia tăng nội địa từ khu vực FDI vào nền kinh tế trong nước vẫn còn hạn chế. Theo ông, Việt Nam cần có những cơ chế gì để nâng cao tỷ lệ giá trị gia tăng nội địa trong chuỗi cung ứng toàn cầu, đồng thời tạo động lực phát triển cho khu vực doanh nghiệp tư nhân?

TS. Lê Duy Bình: Trước tiên, cần khẳng định rằng khu vực FDI đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam trong nhiều năm qua. Không thể phủ nhận rằng, đầu tư nước ngoài đã mang lại nhiều lợi ích quan trọng, từ việc tạo ra việc làm, thúc đẩy xuất khẩu, cho đến việc nâng cao trình độ sản xuất và năng suất lao động. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra không chỉ là thu hút FDI, mà quan trọng hơn là làm thế nào để khu vực doanh nghiệp trong nước có thể tận dụng được cơ hội từ dòng vốn này để nâng cao năng lực nội tại, gia tăng giá trị trong chuỗi cung ứng và giảm sự phụ thuộc vào khối doanh nghiệp FDI.

Để làm được điều này, điều kiện tiên quyết là khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước cần phát triển mạnh mẽ hơn, không chỉ về quy mô mà còn về chất lượng dịch vụ, sản phẩm, năng lực công nghệ, quản trị doanh nghiệp và khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Chính sách của Việt Nam cần tập trung vào việc thúc đẩy sự kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, từ đó hình thành một hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ bền vững. Một trong những giải pháp quan trọng là khuyến khích các tập đoàn đa quốc gia hợp tác và chuyển giao công nghệ và gia tăng hàm lượng nội địa hóa trong chuỗi cung ứng tại Việt Nam. Điều này có thể thực hiện thông qua các chính sách ưu đãi có điều kiện, trong đó tạo ra những cơ chế khuyến khích phù hợp với cơ chế thị trường để các doanh nghiệp FDI chủ động gia tăng hợp tác với doanh nghiệp nội địa trong hoạt động sản xuất, nghiên cứu và phát triển (R&D), cũng như đào tạo nhân lực.

Bên cạnh đó, việc điều chỉnh chính sách ưu đãi đầu tư cũng cần được thực hiện theo hướng có chọn lọc, ưu tiên các dự án có hàm lượng công nghệ cao, cam kết chuyển giao công nghệ và đóng góp thực chất vào nền kinh tế trong nước. Chính sách thu hút FDI cần chuyển dần từ mô hình "ưu đãi trên diện rộng" sang mô hình "hợp tác chiến lược", trong đó tập trung vào những ngành công nghiệp then chốt, có tác động lan tỏa mạnh mẽ đến doanh nghiệp nội địa. Đồng thời, cần từng bước giảm bớt các ưu đãi dành cho doanh nghiệp FDI trong những ngành có lợi thế cạnh tranh nội tại, từ đó tạo dư địa cho doanh nghiệp trong nước phát triển và mở rộng thị phần.

Tuy nhiên, sự phát triển của khu vực doanh nghiệp tư nhân không thể chỉ phụ thuộc vào chính sách hỗ trợ từ Nhà nước hay từ phía doanh nghiệp FDI, mà quan trọng hơn, doanh nghiệp tư nhân phải chủ động nâng cao năng lực nội tại. Các doanh nghiệp trong nước cần học hỏi và áp dụng các mô hình quản trị tiên tiến, nâng cao tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, tối ưu hóa quy trình sản xuất và đầu tư mạnh mẽ hơn vào đổi mới sáng tạo. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh không thể chỉ trông chờ vào sự "chuyển giao" từ các doanh nghiệp FDI, mà đòi hỏi một sự nỗ lực liên tục từ phía doanh nghiệp tư nhân trong việc nâng cao trình độ công nghệ, quản lý nhân sự, phát triển thị trường và xây dựng thương hiệu.

Ngoài ra, Nhà nước cần kiến tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi hơn để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân phát triển bền vững. Các rào cản về thủ tục hành chính, tiếp cận vốn, tiếp cận đất đai và các nguồn lực sản xuất cần được tháo gỡ để giúp doanh nghiệp nội địa có đủ điều kiện tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Cải cách thể chế, đảm bảo sự minh bạch, nhất quán trong chính sách, và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển bền vững là những yếu tố quan trọng để nâng cao tỷ lệ giá trị gia tăng nội địa trong nền kinh tế.

Do đó, chiến lược đúng đắn không phải là nhìn nhận khu vực FDI như một yếu tố cạnh tranh làm hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp trong nước, mà là tận dụng sự hiện diện của họ như một động lực để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Thay vì lo ngại rằng doanh nghiệp FDI đang chiếm lĩnh thị trường, doanh nghiệp trong nước cần chủ động vươn lên để giữ vững thị trường, mở rộng thị trường, học hỏi từ họ và tận dụng cơ hội từ các chuỗi giá trị toàn cầu để nâng cao vị thế của mình. Trên thực tế thì nhiều doanh nghiệp tư nhân, tập đoàn lớn đã làm được điều đó, và trong giai đoạn tới chúng ta cần nhiều doanh nghiệp tư nhân, tập đoàn lớn làm được điều đó. Khi doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đủ mạnh, đủ năng lực và có khả năng giữ vững được thị trường trong nước, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng quốc tế, giá trị gia tăng nội địa sẽ được nâng cao một cách bền vững và thực chất. Năng lực nội sinh của nền kinh tế nhờ đó cũng được phát huy mạnh mẽ.

Xin trân trọng cảm ơn TS. Lê Duy Bình đã dành thời gian chia sẻ những phân tích sâu sắc và giải pháp thiết thực, góp phần định hướng để doanh nghiệp tư nhân Việt Nam bứt phá mạnh mẽ trong giai đoạn phát triển mới.

>> PGS.TS Nguyễn Thường Lạng: Đa dạng hóa thị trường - Chìa khóa giúp Việt Nam giảm rủi ro từ chính sách bảo hộ của Mỹ

Ông Đỗ Cao Bảo: Doanh nghiệp tư nhân đóng góp 27,32% GDP

Sếp FPT Đỗ Cao Bảo: Nhận định doanh nghiệp tư nhân èo ọt là 'sai toét'

Theo Kiến thức Đầu tư
https://dautu.kinhtechungkhoan.vn/ts-le-duy-binh-cai-cach-the-che-phai-tao-dong-luc-de-doanh-nghiep-tu-nhan-but-pha-278582.html
Đừng bỏ lỡ
    Nổi bật Tỷ giá mới
    TS. Lê Duy Bình: Cải cách thể chế phải tạo động lực để doanh nghiệp tư nhân bứt phá
    POWERED BY ONECMS & INTECH