Động vừa đẹp đẽ vừa nguy nga liền phong Bích Động "Nam Thiên Đệ Nhị Động", đứng sau động Hương Tích là "Nam Thiên Đệ Nhất Động" và trước động Địch Lộng là "Nam Thiên Đệ Tam Động".
Kiến trúc "độc nhất vô nhị"
Chùa Bích Động là một di tích lịch sử văn hóa thuộc Quần thể danh thắng Tràng An - Tam Cốc - Bích Động - đã được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt và UNESCO công nhận là di sản  thế giới năm 2014. Đến với vùng sơn thủy hữu tình, du khách không chỉ được ngắm nhìn hang động kỳ thú, bồng bềnh trên chiếc thuyền nan dưới ba vòm đá xanh và lắng nghe những câu chuyện về các nhân vật lịch sử liên quan đến khu du lịch này.
Chùa Bích Động nằm tại chân núi Thái Viên, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Ban đầu, chùa được gọi là “Bạch Ngọc Thạch Sơn Đồng”, nghĩa là ngôi chùa  bằng đá đẹp và trong trắng như ngọc ở chốn thâm sơn cùng cốc.
Theo Sở Thông tin và Truyền thông Ninh Bình, chùa Bích Động được xây dựng với quy mô lớn từ đầu thời Lê. Trong chùa còn có quả chuông lớn đúc từ thời Lê Thái Tổ (1428- 1433) và có những ngôi mộ tháp của các vị hòa thượng có công xây chùa. Đến thời Cảnh Hưng (1740- 1786) chùa được trùng tu, mở rộng thêm gồm chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng theo kiến trúc kiểu chữ “Tam”, dựa vào sườn núi. Chùa được mệnh danh là “Bích Sơn bát cảnh” (tám cảnh đẹp của Bích Động).
Chùa Hạ có kiến trúc 5 gian, 2 tầng 8 mái uốn cong, xây bằng đá tảng mài nhẵn trên nền cao dưới chân núi rất bề thế. Cột thềm, lan can chủ yếu được tạo dựng từ đá xanh. Gian giữa phía ngoài treo bức đại tự bằng chữ Hán “Mạo Cổ thần thanh” (dáng dấp ngôi chùa xưa này thiêng lắm), trong chùa thờ Phật như bao nhiêu các ngôi chùa khác của làng quê Việt Nam. Du khách muốn vào chùa Hạ phải qua một cầu đá ba nhịp, dưới cầu là đầm sen.
Sau khi tham quan chùa Hạ, du khách men theo phía bên phải, đi qua 80 bậc đá lên chùa Trung. Chùa có kiến trúc bán mái phía ngoài, một nửa gắn vào hang động, một nửa lộ thiên, gồm 3 gian thờ Phật. Phía bên trái có tấm bia “Bích Sơn thiền tự bi” (bia ghi lịch sử chùa Bích Động) dựng thời Vua Lê Dụ Tông (1705-1729), bên phải là tấm bia thời Cảnh Hưng tạc ngay vào sườn núi. Phía trên mái chùa Trung ở vách đá thẳng đứng được chạm khắc hai chữ Hán là “Bích Động” (có nghĩa là Động Xanh) do chúa Trịnh Sâm đã đến thăm chùa và đặt tên.
Lễ Phật xong, du khách bước lên 21 bậc đá nữa là đến động Tối. Đây là động chính, bên trên cửa động có treo một quả chuông cổ bằng đồng được đúc năm Đinh Hợi (1707), niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ ba, thời Vua Lê Dụ Tông. Cửa động hình cầu vồng, người dân thường gọi là cầu Giải Oan. Du khách khi đến đây thường thỉnh ba tiếng chuông ngân để "giải oan" cho tâm hồn nơi cửa Phật được thanh tịnh. Vào trong động, du khách sẽ được ngắm nhìn cảnh như một bức tranh tuyệt đẹp do thiên nhiên ban tặng với hình ông tiên, cô tiên, tiểu đồng hay rùa bơi, rồng lượn, voi chầu, hổ phục, chim đại bàng, kho tiền, kho thóc… có một không hai. Bên phải cửa động có ba tượng Phật bằng đá uy nghi. Dưới nền động có nhũ đá hình con rùa lớn và đặc biệt có hai khối đá kỳ lạ khi gõ vào phát ra tiếng kêu như mõ. Những vẻ đẹp sinh động, ấn tượng này khiến ai nấy phải thốt lên đây quả thật là ngôi chùa thiên tạo.
Qua động Tối là chùa Thượng, du khách bước lên gần 40 bậc đá theo sườn núi thấy một ngôi chùa nhỏ nằm ở vị trí cao nhất, gần đỉnh núi Bích Động. Chùa có kiến trúc 2 gian theo kiểu nhà dọc quay hướng Đông Nam, trong chùa chỉ có một tượng Phật bà Quan Âm và hai bên là hai miếu thờ Sơn Thần và Thổ Địa. Cạnh chùa có một bể nước gọi là "bể nước Cam Lồ" của Phật Bà Quan Âm.
Khi lên đến chùa Thượng, du khách có thể phóng tầm mắt để nhìn thấy 5 ngọn núi đứng xung quanh như 5 cánh hoa sen gọi là Ngũ Nhạc Sơn: núi Tầm Sặng (có nhiều cây sặng), núi Gia Định, núi Con Lợn, núi Đầu Cầu và núi Hang Dựa. Nếu nhìn xuống, mọi người sẽ thấy cánh đồng Ngũ Môn có một quả núi nhỏ đá xếp từng lớp gọi là núi Chồng Sách. Sau núi Chồng Sách có một ngọn núi có hình dáng voi chầu, người dân địa phương gọi là núi Voi.
Tể tướng Nguyễn Nghiễm, thân phụ của đại thi hào Nguyễn Du, thấy động vừa đẹp đẽ vừa nguy nga liền phong Bích Động "Nam Thiên Đệ Nhị Động", đứng sau động Hương Tích là "Nam Thiên Đệ Nhất Động" và trước động Địch Lộng là "Nam Thiên Đệ Tam Động".
Chứng tích lịch sử
Chùa Bích Động không chỉ là ngôi cổ tự có vẻ đẹp độc đáo do thiên nhiên ban tặng, nó còn là chứng nhân lịch sử , có nhiều dấu ấn trong kháng chiến chống Pháp. Trong buổi đầu cách mạng, nơi đây là căn cứ của đồng chí Tạ Uyên - một chí sĩ cách mạng quê ở làng Côi Trì, huyện Yên Mô, Ninh Bình.
Trải qua 9 năm kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ, Bích Động được chọn là cơ sở của công binh xưởng Phan Đình Phùng, là thao trường luyện tập của lực lượng dân quân tự vệ địa phương và là nơi họp của cơ quan đầu não tỉnh Ninh Bình.
Đặc biệt, trong chiến dịch Quang Trung năm 1951 và chiến dịch Tây Nam Ninh Bình năm 1953, với địa thế hiểm trở, Bích Động được chọn là căn cứ của bộ đội chủ lực. Vì vậy, khi đến đây tham quan, du khách không chỉ được nghe giới thiệu về cảnh quan thiên nhiên đẹp, ấn tượng và còn được nghe về câu chuyện của các nhân vật lịch sử, anh hùng cách mạng nhằm nâng cao tinh thần yêu nước, cách mạng của giới trẻ.
Nguồn: Lao động, Sở Thông tin và Truyền thông Ninh Bình, Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam
>>Ngôi chùa cổ nằm chênh vênh trên vách núi miền Bắc hơn 500 năm, cách Hà Nội chỉ 20km