Dấu tích ngôi chùa Vua 200 năm tuổi tọa lạc trên nền tháp Chăm miền Chiêm Sơn, là quốc tự đặc biệt gắn với hai lăng hoàng hậu triều Nguyễn
Chùa được xây dựng với mục đích phụng tự hai vị hoàng hậu và cũng vì vậy mà gắn bó mật thiết với hai tôn lăng của hai bà ở địa phương.
Chùa Vĩnh An, tục danh là chùa Vua, tên gọi đầy đủ là Ngự chế Vĩnh An tự hay Sắc tứ Vĩnh An tự (勅賜永安寺). Chùa được hoàng đế Minh Mạng  cho xây dựng vào tháng 8 năm Minh Mạng thứ 4 (1823), một năm sau (năm 1824) thì cho đúc chuông và đến năm Minh Mạng thứ 7 (năm 1826) thì lập biển chùa.
Đây là ngôi quốc tự đặc biệt, gắn với hai lăng hoàng hậu  triều Nguyễn. Theo đó, lăng tẩm của các vua chúa triều Nguyễn cùng các vị hoàng hậu hầu hết nằm ở vùng phụ cận Kinh thành Huế. Chỉ riêng có hai tôn lăng thờ hai bà hoàng hậu là Hiếu Văn hoàng hậu và Hiếu Chiêu hoàng hậu thì nằm ở Quảng Nam . Do lăng hai bà xa kinh thành, việc phụng tự, hương hỏa của hoàng tộc không được thường xuyên, chu đáo nên rất đáng lo.
Tháng 8 năm Minh Mạng thứ 4 (năm 1823), vua Minh Mạng cho quan tỉnh Quảng Nam chọn đất tìm thợ dựng chùa Vĩnh An: “Lập mốc giới cấm địa ở hai lăng Vĩnh Diễn và Vĩnh Diên. Sai dinh thần Quảng Nam đều mở ra 4 trượng ở ngoài phía bảo thành, mà trồng cọc bằng gỗ hồng sắc để làm giới hạn, cấm nhân dân hái củi và trồng trọt. Lại hạ lệnh khoảng giữa hai lăng ấy chọn chỗ cao ráo quang đãng để dựng chùa Vĩnh An”.
Theo đó, chùa Vĩnh An là ngôi chùa  được xây dựng với mục đích phụng tự hai vị hoàng hậu và cũng vì vậy mà gắn bó mật thiết với hai tôn lăng của hai bà ở địa phương.
Chùa nằm cách lăng Vĩnh Diên (lăng Trên) khoảng 1km về phía Tây và cách lăng Vĩnh Diễn (lăng Dưới) 500m về phía Đông. Cả 3 công trình này đều nằm trên các gò đất tương đối cao trong thung lũng Chiêm Sơn Tây, thuộc thôn Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam hiện nay.
Theo hồi cố của các bậc lão niên trong làng, chùa Vua xưa nằm gò Chùa (gò Đồng Cốc), ở Cây Cốc xứ của làng Chiêm Sơn. Gò Đồng Cốc/gò Chùa Vua cũng là một phế tích kiến trúc Chăm. Chùa nằm trên gò, mặt xoay về hướng Đông Nam, nhìn về hướng lăng Vĩnh Diễn. Chính vì vậy, các nghiên cứu đều cho rằng chùa Vĩnh An được “xây dựng trên nền cũ tháp Chăm”.
Chùa Vĩnh An hiện tại không còn dấu vết gì nhưng có thể xác định được vị trí chùa xưa nằm về phía Tây tự đường tộc Lê Văn và bia di tích chùa Vua hiện tại. Xa xưa, từ chùa Vua qua lại hai lăng rất gần và thông được dễ dàng bằng một trục đường đất chạy bên hông chùa theo hướng Đông - Tây.
Trên trục đường Bắc Nam chạy từ chùa ra đến bờ Nam sông Thu Bồn dài khoảng 1km còn lưu truyền địa danh bến Giá Ngự. Xa xưa, nơi đây dành cho vua và hoàng tộc ngự giá mỗi lần đến tế lễ, là nơi thuyền rồng hoặc thuyền quan cập bến để vào chùa, lăng mộ.
Nằm gần sông, lại tọa lạc trên ngọn gò cao giữa thung lũng có những ngọn núi chạy quanh bao bọc, có thể thấy, chùa Vĩnh An được đặt trong tổng thể kiến trúc cùng hai tôn lăng ở thung lũng Chiêm Sơn Tây đều là ở vị trí đắc địa, có “cảnh sắc cao vời thanh tú”, “cảnh trí thanh u tịch tĩnh”.
Sắc tứ Vĩnh An tự là ngôi chùa có vị thế quan trọng trong hệ thống tự viện Phật giáo ở Quảng Nam thời Nguyễn. Chùa được hoàng đế Minh Mạng sắc cho xây dựng để thờ Phật cùng hai vị hoàng hậu nên được khá nhiều thư tịch triều Nguyễn ghi chép.
Chính duyên do trên đã khiến chùa Vĩnh An trở thành một ngôi quốc tự đặc biệt, không giống với bất cứ tự viện thông thường nào và cũng khác với những ngôi quốc tự trên cả nước do các vua triều Nguyễn lập nên.
Chùa Vĩnh An hình thành năm Minh Mạng 4 (năm 1823) đến khoảng năm 1945-1946 thì bị thiêu rụi, tính được khoảng hơn 120 năm tồn tại. Ngôi quốc tự này cũng đã đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển đạo pháp và dân tộc.
Hiện nay, trên bề mặt di tích còn nhiều vật liệu kiến trúc nằm vương vãi trên một diện tích rộng. Một số khu vực được san bạt làm khu vực cư trú đã làm lộ nhiều đoạn tường gạch của các kiến trúc đền tháp. Nhiều hiện vật có giá trị được phát hiện trong quá trình cư trú, trong số đó có không ít hiện vật đã bị thất lạc. Nhiều vật liệu kiến trúc và trang trí như bậc cửa, bệ thờ, lanh tô, bia đá, đà cửa… được người dân tận dụng để làm các bậc cấp lên xuống, làm bờ kè chắn đất, rải lót đường hoặc làm tường rào...