Khó có thể thật sự chứng minh lãi suất ở mức cao có tác động tiêu cực đáng kể lên nền kinh tế. Dẫu vậy, mọi con mắt trên thị trường vẫn đổ dồn vào việc đâu là thời điểm chính xác Fed bắt đầu cắt giảm lãi suất.
Câu hỏi khiến phố Wall và phố chính đều “choáng váng”
Hiện nay, kinh tế Mỹ vẫn phát triển và thị trường chứng khoán cũng đang hoạt động tốt bất chấp một vài biến động. Đó là nguyên do tại sao khó có thể khẳng định chắc chắn rằng lãi suất cao hơn đã tác động tiêu cực đáng kể tới nền kinh tế.
Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu các nhà hoạch định chính sách quyết định giữ nguyên lãi suất lâu hơn nữa và không cắt giảm trong năm 2024. Đó là một câu hỏi khiến phố Wall cảm thấy “choáng váng” và phố chính (Main Street) cũng lo lắng.
Những tuyên bố gần đây của Chủ tịch Fed Jerome Powell và các nhà hoạch định chính sách khác đã củng cố quan điểm rằng việc cắt giảm lãi suất sẽ không diễn ra trong vài tháng tới. |
Chiến lược gia trưởng Quincy Krosby tại LPL Financial nhận định: “Khi lãi suất bắt đầu tăng cao hơn thì sẽ cần phải có sự điều chỉnh. Và câu hỏi đặt ra rằng liệu chúng ta có gặp vấn đề nếu lãi suất duy trì ở mức cao lâu hơn hay không?”.
Lãi suất cao hơn trong thời gian dài hơn không phải điều mà các nhà đầu tư mong đợi hồi đầu năm nay. Tuy nhiên, đó là điều mà họ phải giải quyết bây giờ vì việc hạ nhiệt lạm phát đang trở nên khó khăn hơn dự kiến và chưa thể trở về mức mục tiêu 2% mà Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) mong muốn.
Những tuyên bố gần đây của Chủ tịch Fed  Jerome Powell và các nhà hoạch định chính sách khác đã củng cố quan điểm rằng việc cắt giảm lãi suất sẽ không diễn ra trong vài tháng tới. Trên thực tế, thậm chí còn nhiều đồn đoán về khả năng tăng thêm một hoặc hai đợt nữa nếu lạm phát không hạ nhiệt rõ rệt.
Biểu đồ chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ |
Điều đó đặt ra những câu hỏi về việc chính xác khi nào việc nới lỏng chính sách tiền tệ sẽ diễn ra và việc giữ nguyên quan điểm của ngân hàng trung ương sẽ ảnh hưởng như thế nào đến cả thị trường tài chính  và nền kinh tế nói chung.
Ông Krosby cho biết một số câu trả lời sẽ sớm xuất hiện khi mùa báo cáo thu nhập hiện tại nóng lên. Các lãnh đạo công ty sẽ cung cấp những thông tin chi tiết quan trọng ngoài doanh thu và lợi nhuận, bao gồm cả tác động của lãi suất đối với tỷ suất lợi nhuận và hành vi của người tiêu dùng.
Lãi suất cao chưa hẳn “là xấu”
Lịch sử đã kể những câu chuyện khác nhau về hậu quả của việc Fed giữ quan điểm diều hâu, đối với cả thị trường và nền kinh tế.
Nói chung, lãi suất cao “vẫn tốt” nếu nền kinh tế vẫn tăng trưởng. Giai đoạn cuối cùng mà điều đó không đúng là khi Chủ tịch Fed - lúc đó là ông Paul Volcker đã “dập” lạm phát bằng những đợt tăng lãi suất mạnh mẽ và cuối cùng đẩy Mỹ vào suy thoái.
Thực tế, trong nhiều thập kỷ qua, lãi suất cao hơn không liên quan đến suy thoái kinh tế. Ngược lại, các chủ tịch Fed thường bị chỉ trích vì giữ lãi suất quá thấp trong thời gian dài, dẫn đến bong bóng dot-com và thị trường cho vay dưới chuẩn khủng hoảng, từ đó gây ra hai trong ba cuộc suy thoái trong thế kỷ này.
Trên thực tế, chính sách của Fed đã hình thành nên nhiều quan điểm trong thị trường và có tác động đến nền kinh tế trị giá 27,4 nghìn tỷ USD của Mỹ.
Tuy nhiên, chiến lược gia trưởng toàn cầu David Kelly tại JP Morgan Asset Management nhận định động thái của Fed không tác động nhiều đến nền kinh tế như họ đã nghĩ.
Kelly chỉ ra rằng Fed, trong 11 năm hoạt động giữa cuộc khủng hoảng tài chính và đại dịch Covid, đã cố gắng đưa lạm phát đạt mức 2% bằng chính sách tiền tệ và hầu như đều thất bại. Trong năm qua, đúng là lạm phát hạ nhiệt khi chính sách tiền tệ bị thắt chặt, nhưng vị chuyên gia lại nghi ngờ việc Fed có liên quan nhiều đến vấn đề này.
Một số nhà kinh tế khác cũng đưa ra trường hợp tương tự. Cụ thể là nhu cầu - vốn là thứ nhận tác động lớn từ chính sách tiền tệ - vẫn tăng mạnh mẽ. Trong khi đó, vấn đề nguồn cung - phần lớn hoạt động nằm ngoài tầm với của lãi suất lại là động lực chính khiến lạm phát hạ nhiệt.
Ông cũng bày tỏ quan điểm rằng bản thân không phải nghĩ các nhà hoạch định chính sách đã thiết lập mức lãi suất sai mà chỉ là nó cũng đang ở mức qua cao đối với thị trường tài chính và họ phải cố gắng trở lại mức bình thường - không phải mức thấp mà ở mức “bình thường” và giữ chúng ở đó.
Lãi suất trung tính
Về chính sách, Kelly cho rằng hợp lý là cắt giảm lãi suất khoảng 0,75 điểm phần trăm trong năm nay và năm tới, đưa phạm vi lãi suất xuống mức 3,75%-4%.
Chiến lược gia trưởng toàn cầu David Kelly tại JP Morgan Asset Management |
Và ông cũng thực sự nghĩ rằng nền kinh tế và thị trường có thể chịu được mức lãi suất cao hơn vĩnh viễn. Trên thực tế, ông nghĩ dự báo hiện tại của Fed về lãi suất trung tính khoảng 2,6% là không thực tế dẫu đây đang là ý tưởng thu hút chú ý ở phố Wall.
Ví dụ, Goldman Sachs gần đây đã phát biểu rằng lãi suất trung tính - không mang tính kích thích hay hạn chế - có thể ở mức 3,5%. Chủ tịch Fed Cleveland Loretta Mester cũng nói có thể lãi suất trung tính dài hạn sẽ cao hơn.
Điều đó để lại kỳ vọng rằng chính sách của Fed sẽ nghiêng về việc cắt giảm một phần lãi suất nhưng sẽ không quay trở lại mức lãi suất gần bằng 0 vốn phổ biến trong những năm sau cuộc khủng hoảng tài chính.
Trên thực tế, xét đường dài, lãi suất quỹ liên bang tính từ năm 1954 đã đạt trung bình 4,6%, ngay cả khi lãi suất gần bằng 0 kéo dài suốt 7 năm sau cuộc khủng hoảng năm 2008 cho đến năm 2015.